SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang10/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   68

389 422. Có thể nói giáo lý về nguyên tội là "mặt trái" của Tin Mừng loan truyền Đức Giê-su là Đấng Cứu thế, mọi người đều cần được cứu độ và ơn cứu độ được ban cho tất cả nhờ Đức Ki-tô.Nhờ có cảm thức về Đức Ki-tô ( x. lCr.2,16), Hội Thánh biết rõ không thể động chạm đến mặc khải về nguyên tội mà không động chạm đến Mầu Nhiệm Đức Ki-tô.
Để hiểu trình thuật về sự sa ngã
390 289. Trình thuật về sự sa ngã (St 3) sử dụng một ngôn ngữ tượng hình, nhưng xác định một biến cố hàng đầu xảy ra vào thời khởi nguyên lịch sử nhân loại(x.GS 13,1). Mặc khải giúp chúng ta xác tín rằng tất cả lịch sử nhân loại đều mang dấu tích nguyên tội mà nguyên tổ đã cố tình phạm ( x. Cđ. Tren-tô: DS 1513 ; Pi-ô XII; DS 3897; Phao-lô VI bài giảng 11/7/ 1966).
II. SA NGÃ CỦA CÁC THIÊN THẦN
391 2538. Đằng sau sự lựa chọn bất tuân của các nguyên tổ có một tiếng gọi quyến rũ chống lại Thiên Chúa ( x. St 3,1-5), vì ganh tị với con người, đã đưa nguyên tổ sa vào cõi chết ( x. St 2,24). Thánh Kinh và Truyền Thống của Hội Thánh đã cho nhân vật đó là một thiên thần sa ngã gọi là Xa-tan hay ma quỷ ( x.Ga 8,44; Kh 12,9). Hội Thánh dạy rằng thoạt đầu đó là một thiên thần tốt do Thiên Chúa tác tạo. "Chắc chắn quỷ dữ và các thứ ma quỷ khác đều được Thiên Chúa sáng tạo với bản tính tốt lành, nhưng tự chúng đã trở nên xấu" ( x. Cđ. La-tran IV năm 1215 : DS 800).
392 1850 2482. Kinh Thánh có nói đến một tội của các thiên thần này ( x. 2Pr 2,4). Việc sa ngã là do các thụ tạo thuần linh ấy đã tự do chọn lựa từ chối Thiên Chúa và Vương Triều của Người cách triệt để và dứt khoát. Cuộc nổi loạn này được phản ánh trong lời của tên cám dỗ nói với các nguyên tổ : "Các người sẽ trở nên như Thiên Chúa" (St 3, 5). Ma quỷ là kẻ "phạm tội ngay từ thuở sơ khai" (1 Ga 3,8), là "cha sự dối trá"

(Ga 8,44).


393 1033- 1037 1022. Không phải vì Thiên Chúa thiếu lòng thương xót nhưng vì các thiên thần ấy đã chọn lựa dứt khoát, cho nên tội của họ không thể tha thứ được. "Sau khi sa ngã, các thiên thần không còn có thể hối cải, cũng như con người không thể ăn năn sám hối sau khi chết" (T.Gio-an Đa-ma-sô f.o.2,4).
394 538- 540 550 2846- 2849. Thánh Kinh xác nhận ảnh hưởng tai hại của kẻ mà Đức Giê-su gọi là "tên sát nhân ngay từ lúc sơ khai"(Ga 8, 44), kẻ đã xúi giục Người bỏ sứ mệnh Chúa Cha trao phó ( x. Mt 4,1-11). "Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ" ( 1 Ga 3,8). Điều tai hại nhất trong các công việc của ma quỷ là dùng sự dối trá để quyến rũ con người bất tuân Thiên Chúa.
395 309 1673 412, 2850- 2854. Thế nhưng sức mạnh của Xa-tan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh vì là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo: nó không thể ngăn chặn công trình xây dựng Vương Triều của Thiên Chúa. Xa-tan hành động nơi trần thế do thù hận Thiên Chúa và Vương Quốc Người được thiết lập trong Đức Giê-su Ki-tô. Hành động đó gây tác hại rất nghiêm trọng về mặt tinh thần và gián tiếp cả về mặt thể lý, nơi mỗi người và nơi xã hội; hành động ấy được Chúa quan phòng để cho xảy ra, Người là Đấng điều khiển lịch sử loài người và thế giới cách mạnh mẽ mà cũng rất dịu dàng. Việc Chúa để cho ma quỷ hành động quả là một mầu nhiệm lớn, nhưng "chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người" ( Rm 8, 28).
III. TỘI NGUYÊN TỔ
Thiên Chúa thử thách tự do của con người
396 1730, 311 301. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài và cho họ sống trong tình thân với Người. Là một thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân đó khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ "vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết" (St 2, 17). "Cây biết lành biết dữ" (St 2, 17) nói lên một cách biểu tượng ranh giới mà con người là thụ tạo không thể vượt qua nhưng phải tự ý nhìn nhận và tôn trọng với lòng tín thác. Con người tùy thuộc vào Đấng Sáng Tạo, phải tuân theo các định luật tự nhiên và các tiêu chuẩn luân lý qui định việc sử dụng tự do.
Tội đầu tiên của con người
397 1707,2541 1850 215. Con người bị ma quỷ cám dỗ, đã đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, và khi lạm dụng sự tự do, con người đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người ( x. Rm 5,l9). Từ đó mọi tội lỗi đều là do bất tuân Thiên Chúa và thiếu tín thác vào lòng nhân hậu của Người.
398 2084 2113. Trong tội này, con người đã chọn chính mình thay vì Thiên Chúa và do đó đã khinh mạn Thiên Chúa: Con người đã chọn mình bất chấp Thiên Chúa, bất chấp những đòi hỏi của tình trạng thụ tạo và do đó bất chấp cả điều tốt lành cho bản thân . Khi tác thành con người trong tình trạng thánh thiện, Thiên Chúa đã dành sẵn ơn "thần hóa" sung mãn trong vinh quang. Do ma quỷ cám dổ, con người đã muốn "nên như Thiên Chúa" ( x. St 3,5) mà "không cần Thiên Chúa, qua mặt cả Thiên Chúa, và không theo Thiên Chúa" ( Th: Niaxime le Confesseur, ambig).
399. Kinh Thánh cho thấy những hậu quả bi đát của sự bất tuân đầu tiên đó. A-đam và E-và đã tức khắc đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy ( x. Rm 3,23). Họ sợ hãi trước vị Thiên Chúa ( x. St 3,9-l0) mà họ quan niệm cách sai lệch, như một Thiên Chúa ganh tị, sợ mất các đặc quyền của mình ( x. St 3,5).
400 1607 2514, 602, 1008. Trước kia nguyên tổ sống trong sự hài hòa do tình trạng công chính nguyên thủy, nay tội đã phá hủy sự hài hòa đó, làm cho những khả năng điều khiển của linh hồn trên thể xác bị thương tổn ( x. St 3,7); sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng ( x. St 3,11-13); mối quan hệ giữa họ đầy những ham muốn và thống trị ( x. St 3,16). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ : thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người ( x. St 3,17-19). Vì con người, muôn loài đã "lâm vào cảnh hư ảo" (Rm 8, 20). Cuối cùng, hậu quả đã được báo trước rõ ràng cho tội bất tuân, nay thành hiện thực : "Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro" (St 3,19). Sự chết đã xâm nhập vào lịch sử nhân loại ( x. Rm 5,l2) .
401 1865, 2259 1799. Từ tội đầu tiên này cả trần thế bị chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Ca-in giết A-ben (St 4,3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người; cũng vậy, trong lịch sử Ít-ra-en, tội thường xuyên xuất hiện, nhất là dưới dạng bất trung với Thiên Chúa Giao Ước và sự vi phạm luật Mô-sê; cả sau biến cố cứu độ của Đức Ki-tô, tội xuất hiện dưới nhiều dạng ngay giữa người Ki-tô hữu (x. 1Cr 1-6; Kh 2-3). Thánh Kinh và truyền thống Hội Thánh không ngừng nhắc nhở tội hiện diện khắp nơi trong lịch sử loài người :
Điều Thiên Chúa mặc khải cho ta biết, cũng được kinh nghiệm của ta xác nhận. Bởi vì nếu nhìn sâu tận đáy lòng, con người cũng khám phá ra mình hướng về sự dữ, và ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa tốt lành . Nhiều khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên uỷ của mình, con người cũng đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích tối hậu, đồng thời phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người khác và với mọi loài thụ tạo (GS 13,1).
Hậu quả của tội A-đam trên nhân loại
402 430, 605. Mọi người đều liên lụy với tội A-đam. Thánh Phao-lô khẳng định : "Do một người bất tuân, muôn người (nghĩa là mọi người) đã mang tội" (Rm 5,19): "Cũng như vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi đã gây nên sự chết. Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội" (Rm 15, 12). Thánh tông đồ đối chiếu tính phổ quát của tội lỗi và sự chết với tính phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Ki-tô : "Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được làm cho nên công chính, nghĩa là được sống" (Rm 5,18).
403 2606 1250. Theo chân thánh Phao-lô, Hội Thánh luôn dạy rằng chúng ta không thể hiểu được nỗi khốn khổ lớn lao đang đè nén con người cũng như việc họ hướng chiều về sự dữ và sự chết, nếu không nối kết chúng với tội A-đam và việc nguyên tổ đã truyền lại cho chúng ta một tội mà mỗi người phải mang lấy từ khi sinh ra và tội này là "cái chết của linh hồn" ( x. Cđ Tren-tô; DS. 152). Với xác tín do đức tin này, Hội Thánh ban phép Thánh Tẩy để tha tội cho cả những trẻ em chưa từng phạm tội riêng ( x. Cđ Tren-tô : DS 1514).
404 360 50. Bằng cách nào tội A-đam đã trở nên tội của cả nhân loại ? Toàn thể nhân loại đều ở trong A-đam "như một thân thể duy nhất của một con người duy nhất" ( T.Tô-ma A-qui-nô, mal 4-l). Do "thể thống nhất của nhân loại", mọi người đều liên lụy với tội A-đam, cũng như đồng hưởng sự công chính của Đức Ki-tô. Tuy nhiên, việc lưu truyền nguyên tội là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu thấu trọn vẹn. Nhưng nhờ mặc khải chúng ta biết rằng A-đam đã được hưởng nhận sự thánh thiện và công chính không phải cho riêng mình, mà cho cả bản tính nhân loại : khi chiều theo cám dỗ, A-đam và E-và phạm tội với tính cách cá nhân nhưng tội đó ảnh hưởng đến cả bản tính con người mà nguyên tổ đã truyền lại trong tình trạng sa đọa ( x. Cđ Tren-tô: DS.1511-1512). Tội đó đã truyền lại cho hết nhân loại qua sinh sản nghĩa là truyền lại một bản tính loài người đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, nguyên tội được gọi là "tội" do loại suy : đó là một thứ tội con người bị "nhiễm" chứ không phải đã "phạm"; một tình trạng, chứ không phải một hành vi.
405 2515 1264. Tội ấy mặc dầu truyền đến mỗi người ( x. Cđ Tren-tô: DS.1513), nhưng không hề mang tính cách một tội riêng nơi bất kỳ ai trong con cháu A-đam. Nguyên tội làm mất đi sự thánh thiện và công chính ban đầu, nhưng không làm hư hoại hoàn toàn bản tính loài người : Bản tính loài người chỉ bị thương tổn trong các khả năng tự nhiên, bị lâm cảnh mê muội, đau khổ và phải chết, ( hướng chiều về tội lỗi, hướng chiều này được gọi là "vật dục"). Khi ban cho con người đời sống ân sủng của Đức Ki-tô, bí tích Thánh Tẩy cũng xóa bỏ nguyên tội và quy hướng con người về Thiên Chúa; nhưng hậu quả của nguyên tội trên bản tính bị suy yếu và nghiêng chiều về sự dữ, vẫn tồn tại nơi con người và đòi buộc con người phải chiến đấu luôn mãi.
406. Giáo lý của Hội Thánh về sự lưu truyền nguyên tội đã được minh định, vào thế kỷ V, đặc biệt là qua tư duy của Thánh Âu-tinh chống lại giáo thuyết Pélagiô, và vào thế kỷ XVI, chống lại cuộc cải cách Tin Lành. Theo Pélagiô, với khả năng tự nhiên của ý chí tự do, con người không cần ơn Thiên Chúa trợ giúp cũng có thể sống tốt lành về mặt luân lý. Ông giản lược ảnh hưởng tội A-đam thành ảnh hưởng của một gương xấu. Ngược lại, những nhà Cải Cách đầu tiên chủ trương nguyên tội đã làm con người hoàn toàn sa đọa và tiêu hủy sự tự do của con người; họ đồng hóa tội truyền đến mỗi người với xu hướng về sự dữ mà họ cho là không thể khắc phục được. Hội Thánh làm nổi bật ý nghĩa công bố đã xác định nội dung mặc khải về nguyên tội đặc biệt tại công đồng Orange II năm 529 ( DS 371-372) và Công Đồng Tren-tô năm 1546 (x.DS 1510-1516).
Một cuộc chiến cam go…
407 2015 2852 1888. Giáo lý về nguyên tội gắn liền với giáo lý về ơn cứu chuộc nhờ Đức Ki-tô, giúp ta biết nhận định sáng suốt về hoàn cảnh và hành động của con người nơi trần thế. Vì nguyên tổ phạm tội, ma quỷ đã phần nào thống trị trên con người, mặc dầu con người vẫn còn tự do. Hậu quả của nguyên tội là con người phải làm nô lệ dưới quyền kẻ bá chủ sự chết là ma quỉ ( x. Cđ Tren-tô : x.DS.1511 - Dt 2,l4). Nếu không biết bản tính con người đã bị thương tổn, nghiêng chiều về sự dữ, người ta có nguy cơ mắc phải những lầm lẫn nghiêm trọng trong lãnh vực giáo dục, chính trị, hoạt động xã hội ( x. CA 25) và luân lý.
408 1865. Các hậu quả của nguyên tội và của tất cả các tội riêng của con người đưa toàn bộ thế giới vào một tình trạng tội lỗi mà chúng ta có thể dùng cách nói của Thánh Gio-an để diễn tả : "tội trần gian" (Ga l,29). Với thành ngữ này, người ta muốn nhấn mạnh ảnh hưởng tiêu cực trên con người do các hoàn cảnh và cơ cấu xã hội, vốn là hậu quả của những tội lỗi ( x. RP l6).

409 2516. Hoàn cảnh bi đát của trần thế "nằm dưới ách thống trị của ác thần" (1Ga 5,19) ( x. 1Pr 5,8) làm cho cuộc sống con người trở nên một cuộc chiến đấu.
Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại; khởi đầu từ lúc khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như Lời Chúa phán... Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ đạt được sự thống nhất nội tâm, sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa (x. GS 37,2 ).

IV. "THIÊN CHÚA ĐÃ KHÔNG BỎ MẶC CON NGƯỜI DƯỚI QUYỀN SỰ CHẾT"
410 55, 705 1609, 2568 675. Sau khi sa ngã, con người không bị Thiên Chúa bỏ rơi. Ngược lại, Thiên Chúa kêu mời con người và tiên báo cách huyền nhiệm sự dữ sẽ bị đánh bại và con người sa ngã sẽ được nâng dậy. Đoạn này trong sách Sáng Thế được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Mê-si-a cứu chuộc, về cuộc chiến đấu giữa con rắn và người nữ và về chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này.
411 359,615 491. Truyền thống Ki-tô giáo nhận ra trong đoạn trên lời tiên báo một "A-đam mới" (x. 1Cr.15,21-22.45), Đấng "vâng phục cho đến chết trên thập giá" (Pl 2,8), đã sửa lại sự bất tuân của A-đam mà còn mang lại ân sủng tràn đầy. Vả lại, có nhiều giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh nhận ra Đức Ma-ri-a, Mẹ Đức Ki-tô, là người nữ được tiên báo trong Tiền Tin Mừng và được xem như "E-và mới". Mẹ là người đầu tiên đã thừa hưởng một cách độc nhất vô nhị chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi : Mẹ đã không hề nhiễm vết nhơ nguyên tội (x. Pi-ô IX - DS 28O3) và nhờ ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa, Mẹ đã không hề phạm một tội nào trong suốt cuộc đời trần thế (Cđ Tren-tô. DS.1573).
412 310, 395 272 1994. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại không ngăn cản con người đầu tiên phạm tội ? Thánh Lê-ô Cả trả lời : "Ân sủng khôn tả của Đức Ki-tô, đem lại cho ta những điều tốt đẹp hơn những gì mà vì ganh ghét ma quỉ đã cướp mất" (Bài giảng 73,4), và thánh Tô-ma A-qui-nô cũng nói : "Sau khi con người đã phạm tội, không có gì ngăn cản bản tính loài người đượchướng về một cứu cánh cao đẹp hơn". Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra để từ sự dữ rút ra sự lành tốt hơn. Do đó, thánh Phao-lô nói : "Ở đâu tội lỗi ngập tràn, ở đấy ân sủng cũng được thông ban dư dật" (Rm 5,20); và Hội Thánh hoan ca khi chúc lành nến Phục Sinh : "Nguyên tội hỡi, tội hoá thành hồng phúc, nhờ có ngươi, ta mới được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này" (T.Tôma S.th III,1,3 ad 3).
TÓM LƯỢC
413. "Thiên Chúa không tạo ra sự chết. Người chẳng vui thích gì khi các sinh linh hư mất ...Cái chết đã xâm nhập vào trần thế do lòng ghen ghét của ma quỷ (Kn 1,13; 2,24)".
414. Sa-tan hoặc ma quỉ và các ác thần khác là những thiên thần sa đọa vì đã tự ý khước từ phục vụ Thiên Chúa và ý định của Người. Đây là một lựa chọn dứt khoát chống lại Thiên Chuá. Chúng đã có dụng ý lôi kéo con người cùng với chúng nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
415. "Được Thiên Chúa đặt trong tình trạng thánh thiện, ngay từ phút đầu của lịch sử, con người nghe theo thần dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa"

(GS l3,1) .


416. A-đam, con người đầu tiên, vì phạm tội đã đánh mất sự thánh thiện và công chính nguyên thủy được Thiên Chúa ban, không những cho mình mà cho cả nhân loại.
417. A-đam và E-và đã truyền lại cho hậu duệ một nhân tính bị tội đầu tiên làm tổn thương, không còn sự thánh thiện và công chính nguyên thủy. Sự mất mát đó được gọi là "nguyên tội".
418. Hậu quả của nguyên tội là bản tính loài người bị suy yếu trong các khả năng, lâm cảnh mê muội, bị sự chết thống trị, hướng chiều về tội lỗi (hướng chiều này gọi là "vật dục") và như thế, mỗi người đều mắc nguyên tội.
419. "Cùng với Công Đồng Tren-tô chúng tôi xác quyết nguyên tội được lưu truyền lại cùng với bản tính nhân loại "không phải do bắt chước mà do sinh sản" và từ đó, nguyên tội trở nên của mỗi người" (SPF 16).
420. Đức Ki-tô chiến thắng tội lỗi đã mang lại cho chúng ta những ân huệ cao đẹp hơn những gì tội lỗi đã làm mất đi : "Ở đâu tội lỗi ngập tràn, ở đấy ân sủng được thông ban dư đầy" (Rm 5,2O).
421. "Người Ki-tô hữu tin rằng thế giới này đã được thiết lập và giữ gìn nhờ tình yêu của Đấng Sáng Tạo, tác thành và bảo trì. Thế giới ấy đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi; nhưng Đức Ki-tô đã nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh bẻ gẫy uy quyền của ác thần và giải thoát thế giới" (GS 2,2).

CHƯƠNG HAI
TÔI TIN KÍNH ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ,CON MỘT THIÊN CHÚA

Tin Mừng : Thiên Chúa đã cử Con Một đến
422 398, 2763. "Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Mình tới, sinh làm con một người nữ và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Ga 4,4-5). Đây là "Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa" (Mc l,l) : Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ( x. Lc 1,68). Người đã thực hiện lời hứa với Áp-ra-ham và con cháu ông (x.Lc l,55). Người đã thực hiện hơn cả điều chúng ta mong ước : Người đã cử "Con yêu dấu" của Người đến (Mc l,ll).
423. Chúng tôi tin và tuyên xưng rằng : Đức Giê-su Na-da-rét, dưới thời Vua Hê-rô-đê cả và Hoàng đế Xê-da-rê Âu-gut-tô, sinh làm người Do Thái, con một người con gái của Ít-ra-en, tại Bê-lem, làm nghề thợ mộc, chết trên thập giá tại Giê-ru-sa-lem, thời tổng trấn Phông-xi-ô Phi-la-tô, dưới triều Hoàng đế Ti-bê-ri-ô. Người là Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, "bởi Thiên Chúa mà đến" (Ga l3,3), "Đấng từ Trời xuống" (Ga 3,l3; 6,33), "đến trong xác phàm" (l Ga 4,2); vì "Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được nhìn thấy Vinh Quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và chân lý (...). Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác" (Ga l,l4.l6).
424 638 552. Nhờ Thánh Thần tác động và nhờ Chúa Cha lôi kéo, chúng tôi tin và tuyên xưng về Đức Giê-su như sau : "Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt l6,l6). Chính trên tảng đá đức tin này như thánh Phê-rô tuyên xưng, Đức Ki-tô đã xây dựng Hội Thánh của Người ( x.Mt l6,l8; T. Lê-ô cả, bài giảng 4,3; 5l,l; 62,2; 83,3).
"Loan báo sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô" (Ep 3,8)
425 850, 858. Truyền đạt đức tin Ki-tô giáo, trước tiên là loan báo Đức Giê-su Ki-tô, để dẫn đưa mọi người đến chỗ tin vào Người. Ngay từ đầu, các môn đệ đầu tiên đã khao khát loan báo Đức Ki-tô : "Còn phần chúng tôi, chúng tôi không thể không công bố những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe" (Cv 4,20) và đã kêu mời con người trong mọi thời đại vào hưởng niềm vui hiệp thông với Đức Ki-tô :
"Điều chúng tôi đã được nghe, điều chính mắt chúng tôi đã được nhìn thấy và chiêm ngưỡng, điều chính tay chúng tôi đã được sờ đến, về Lời Sự Sống; quả vậy, sự sống đã xuất hiện, chúng tôi đã nhìn thấy và xin làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em Sự Sống đời đời hằng ở bên cạnh Chúa Cha và nay đã xuất hiện cho chúng ta; điều chúng tôi đã được thấy, được nghe, chúng tôi xin loan báo cho anh em, để cả anh em nữa cũng được hiệp thông với chúng tôi mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra cho anh em để niềm vui của chúng tôi được trọn vẹn" (lGa l,l-4).
Trọng tâm của huấn giáo : Đức Ki-tô
426 1698 513 260. "Trọng tâm của huấn giáo là một Con Người, con người của Đức Giê-su Na-da-rét, Con Một của Chúa Cha ... đã chịu khổ hình, chịu chết vì chúng ta và nay sống lại, sống mãi mãi với chúng ta .... Dạy giáo lý ... là giúp người ta khám phá nơi con ngươì của Đức Ki-tô tất cả ý định muôn đời của Thiên Chúa. Đó là tìm hiểu ý nghĩa các hành động và lời nói của Đức Ki-tô, cùng những dấu chỉ Người thực hiện" ( CT 5). Mục đích của huấn giáo là "đưa con người đến hiệp thông với Đức Giê-su Ki-tô : chỉ một mình Người mới dẫn ta đến tình yêu Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và cho ta thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh" (Ibid )
427 2146 876. "Trong huấn giáo, ta giảng dạy về Đức Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa; tất cả những điều khác được giảng dạy quy chiếu về Người; chỉ một mình Đức Ki-tô giảng dạy, còn bất cứ ai giảng dạy đều phải giảng dạy như phát ngôn viên của Người, để Đức Ki-tô dạy qua miệng lưỡi họ... mọi giáo lý viên đều phải áp dụng cho mình lời nói nhiệm mầu của Đức Giê-su : "Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi" (Ga 7,l6).
428. Người nào được mời gọi "giảng dạy về Đức Ki-tô" trước hết phải tìm "mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô"; phải "mất hết ... để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người", và để "biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, để nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết " (Pl 3,8-ll).
429 851. Việc nhận biết Đức Ki-tô và tâm tình yêu mến sẽ khơi dậy nơi chúng ta khát vọng loan báo về Người, phúc âm hóa và giúp mọi người tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Đồng thời, người ta luôn cảm thấy cần phải đào sâu đức tin này hơn. Nhằm mục đích đó, theo thứ tự của kinh Tin Kính, trước hết chúng tôi sẽ trình bày các danh hiệu chính của Đức Giê-su : Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đức Chúa (mục 2). Kế đó là các mầu nhiệm chính yếu của cuộc đời Đức Ki-tô : Nhập Thể mục 3), Vượt Qua (mục 4 và 5) và Tôn Vinh (mục 6 và 7).
Mục 2
"TÔI TIN KÍNH ĐỨC GIÊSU KITÔ,CON

MỘT CỦA NGÀI, LÀ CHÚA CHÚNG TÔI”
I. ĐỨC GIÊ-SU

430 210 402. Trong tiếng Hip-ri, danh thánh "Giê-su" có nghĩa là "Thiên Chúa Cứu Độ". Khi truyền tin, thiên thần Gáp-ri-en gọi tên Người là Giê-su; danh xưng này vừa diễn tả căn tính, vừa diễn tả sứ mạng của Người (x. Lc 1.31). Bởi vì "chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội"

(Mc 2,7), cho nên chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su là Chúa Con Vĩnh Cửu làm người" sẽ cứu dân Mình khỏi tội" (Mt l,2l). Như thế, trong Đức Giê-su, Thiên Chúa qui tụ tất cả lịch sử cứu độ nhân loại.


431 850,1441 388. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với việc giải thoát Ít-ra-en khỏi "nhà nô lệ" (Đnl 5,6) khi đưa họ ra khỏi Ai-cập, Người còn cứu thoát họ khỏi tội lỗi nữa. Vì tội luôn là một xúc phạm đến Thiên Chúa (x.Tv 51,6), nên chỉ Thiên Chúa mới có thể tha thứ được (x.Tv 51,12). Do đó, dân Ít-ra-en càng nhận thức được tính phổ quát của tội lỗi, càng thấy chỉ có thể tìm được cứu độ trong việc cầu khẩn danh Thiên Chúa cứu chuộc (x. Tv 79,9).
432 589,2666 389 161. Danh xưng Giê-su cho thấy chính danh thánh Thiên Chúa hiện diện trong con người Chúa Con ( x. Ga 3,5; Cv 2,21), Đấng làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội cách dứt khoát. Danh xưng Giê-su là danh xưng thần linh, danh xưng duy nhất mang lại ơn cứu độ. Từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh Giê-su, vì nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, danh xưng ấy đã liên kết với tất cả mọi người, đến nỗi "dưới gầm trời này không danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,12) ( x. Lv 16, 15-16;GV 50,20; Dt 9,7).
433 615. Xưa kia, mỗi năm một lần, vị Thượng Tế kêu cầu danh Thiên Chúa Cứu Chuộc để xá tội dân Ít-ra-en, khi ông rảy máu hy tế lên bàn xá tội trong nơi cực thánh. Bàn xá tội là nơi Thiên Chúa hiện diện ( x. Xh 25,22; Lv 16,2; Ds 7,89; Dt 9,5). Khi thánh Phao-lô nói rằng "Thiên Chúa đã định cho Đức Giê-su phải đổ máu mình ra làm phương thế xá tội" (Rm 3,25), ngài muốn nói rằng qua bản tính nhân loại của Đức Ki-tô, "chính Thiên Chúa đã hòa giải nhân loại với Người"(2 Cr 5,l9).
434 2812. Sự sống lại của Đức Giê-su tôn vinh danh Thiên Chúa cứu độ ( x. Ga 12,28), vì từ nay chính danh Giê-su bày tỏ trọn vẹn quyền năng tối thượng của "Danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu" (Pl 2,9-l0). Các thần dữ khiếp sợ Danh Người ( x. Cv 16,16-18). Nhờ Danh đó các môn đệ của Đức Giê-su thực hiện các phép lạ (x. Mc 16,17), bơ<150)i vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Người, Chúa Cha sẽ nhận lời (x. Ga l5,l6).


tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương