36
(b) diện tích bề mặt riêng cao để dễ biến tính hóa học và phân tán;
(c) dẫn nhiệt tốt để tản nhiệt từ các khu vực ma sát;
(d) lực tương tác Van der Waals yếu giữa các lớp của chúng cho phép các
lớp dễ dàng trượt trên nhau.
Vật liệu có cấu trúc dạng tấm như than chì, MoS
2
, WS
2
và BN đã và đang
được sử dụng như chất bôi trơn rắn trong phạm vi ứng dụng ma sát học. Tuy nhiên,
việc sử dụng các vật liệu này như một loại phụ gia cho dầu bôi trơn lại là một thách
thức lớn vì khả năng phân tán thấp của chúng. Graphen là vật liệu tấm cacbon hai
chiều, với các tính chất đặc biệt về cơ, điện và nhiệt là một thuận lợi khi ứng dụng
làm vật liệu bôi trơn. Gần đây, graphen đã được khám phá như một vật liệu tuyệt
vời cho việc giảm ma sát và mài mòn [15]. Nghiên cứu bằng kính hiển vi trên
graphen epitaxy cho thấy ma sát của lớp graphen đơn lớp thấp hơn lớp kép. Kim và
cộng sự chỉ ra rằng graphen là một chất bôi trơn rắn mỏng làm giảm lực bám dính
và ma sát giữa các bề mặt tiếp xúc trên nano và vi mô trong khi bảo vệ các bề mặt
kim loại [31]. Nghiên cứu dựa trên kính hiển vi lực nguyên tử (AFM) và mô phỏng
chứng minh rằng các đặc tính ma sát và độ bám dính của graphen được điều khiển
bởi một số yếu tố trong đó có sự tương tác giữa đầu dò của AFM và graphen, số
lượng các lớp
trong graphen, tương tác giữa graphen và bề mặt kim loại, hướng
trượt [17]. Bên cạnh những ứng dụng của graphen trong lĩnh vực bôi trơn, Sumant
và cộng sự đã chứng minh graphen cũng có tính năng như là một loại vật liệu bảo
vệ, chống lại sự ăn mòn kim loại [15]. Trên cơ sở hình thành các lớp màng graphen
bao phủ trên bề mặt kim loại, ngăn cản sự tiếp xúc trực tiếp bề mặt kim loại với các
tác nhân gây ăn mòn.
Tính ổn định phân tán của graphen thấp và bị tách ra khỏi chất lỏng quá sớm,
gây xói mòn và có thể gây nên tắc nghẽn hệ thống. Do đó các vật liệu này cần phải
được biến tính hóa học để phù hợp với chất lỏng cơ sở (dầu bôi trơn) mà chúng sẽ
được phân tán vào nhằm tăng độ bền phân tán, trên cơ sở đó cải thiện đáng kể được
các đặc tính làm việc cũng như thời gian làm việc của chất lỏng bôi trơn. Các nhóm
37
ankyl- có khả năng tương hợp tốt với môi trường hydrocacbon trong dầu bôi trơn vì
thế tăng khả năng phân tán và độ ổn định của graphen trong dầu.
Hình 1.21: Cơ chế chống mài mòn của dầu có pha phụ gia graphen [57].
Quá trình biến tính nhằm tăng khả năng phân tán của graphen trong dầu bôi
trơn được thực hiện bằng cách đưa các nhóm ankyl- lên trên graphen. Các amin có
mạch cacbon dài với số nguyên tử cacbon ≥8 sẽ gắn trên cạnh biên của graphen oxit
giúp chúng dễ tương hợp với dầu bôi trơn (môi trường không phân cực) làm tăng
khả năng phân tán graphen trong dầu bôi trơn [48].
Graphen oxit được tạo thành từ quá trình oxy hóa graphit có khả năng phân
tán tốt trong nước vì sự có mặt của các nhóm chức hydroxyl (OH), epoxyl (COC)
và carboxylic (COOH) [38]. Các nhóm chức hydroxyl và epoxyl thường nằm trên
bề mặt của graphen oxit, còn nhóm chức carboxyl nằm trên cạnh biên của graphen
oxit [1].
Biến tính graphen oxit bằng amin
: Phản ứng trực tiếp giữa amin với graphen
oxit hình thành các nhóm alkyl- trên graphen là một phương pháp đơn giản hạn chế
việc sử dụng các trung gian như SOCl
2
(hình 1.20) (một tác nhân clo hóa mạnh và
độc hại) là một lựa chọn mà nhóm để tài đưa ra để tổng hợp phụ gia graphen biến
tính. Để thực hiện quá trình biến tính graphen, quá trình biến tính alkyl- trên
graphen thường được thực hiện theo quy trình ba bước [48]:
Graphit + [O]
G-COOH