NGƯ tiều y thuật vấN ĐÁp nguyễN ĐÌnh chiểU



tải về 157.05 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích157.05 Kb.
#26612
1   2   3   4

Tạng phủ định vị
(xác định vị trí các tạng phủ)
Dịch nghĩa:
Tay trái là tim, ruột non, gan, mật, thận ;
Tay phải là phổi, ruột già, lá lách, dạ dày và mệnh môn.
Tim và ruột non ứng với bộ Thốn tay trái.
Gan, mật cùng hội về bộ Quan tay trái.
Mạch thận nguyên ở bộ Xích tay trái.
Bàng quang là phủ của thận cũng ở đấy.
Phổi cùng ruột già ứng với bộ Thốn tay phải.
Lá lách, dạ dày xem ở bộ Quan tay phải.
Màng tim sóng đôi với tam tiêu, hợp với bộ Xích tay phải.
Đó là bí quyết cho kẻ mới học nghề y.

Tiều rằng: Xem bệnh tử sinh,


Phép ông nào trọn, xin rành dạy ta ?
Dẫn rằng: Xưa có Thúc Hòa,
990. Xem hình, xét sắc, ít nhà dám chê.
Chẳng chờ miệng nói tai nghe,
Mấy mòi sống thác khôn che mắt thần.
Nay trau con mắt phong trần,
Coi lời ca quyết sáng ngần hơn châu.

Vương Thúc Hòa quan bệnh sinh tử hậu ca
(Bài ca về phép xem triệu bệnh sống chết của Vương Thúc Hòa)
Dịch nghĩa:
Bệnh sắp khỏi, vè mắt có sắc vàng (vị khí đã lưu hành).
Vành quanh mắt thình lình trũng xuống, biết chắc là chết (ngũ tạng tuyệt).
Tai, mắt, mũi, miệng nổi sắc đen,
Đã lan vào đến miệng thì mười phần có đến tám là khó cứu (thận khí chế vi khí),
Mặt vàng, mắt xanh thường do uống rượu quá say,
Dể gió tà xông vào vị nên mất mạng (mộc khắc thổ).
Mặt đen, mắt trắng là mệnh môn hỏng.
Trong người lại thấy quá nhọc mệt, thì tám ngày chết.
Trên mặt thình lình thấy có sắc xanh,
Nếu như dần dần trở thành màu đen là chết, khó cứu (can và thận tuyệt).
Mặt đỏ, mắt trắng, lại thở khò khè thì rất đáng sợ,
Đợi qua mười ngày sẽ rõ sống hay chết (hỏa khắc kim).
Sắc vàng, đen, trắng nổi lên chạy vào mắt,
Vào cả mũi, miệng là có tai vạ (thận chế tỳ).
Nếu lại thêm mặt xanh, mắt vàng thì giờ Ngọ sẽ chết,
Còn lại thì cũng chỉ sống trong vài ngày là cùng (mộc khắc thổ).
Mắt không có tinh thần, lợi răng có sắc đen (tâm và can tuyệt).
Mặt trắng, mắt đen cũng là tai vạ (phế và thận tuyệt)
Miệng mở ra như miệng cá, không ngậm lại được (tỳ tuyệt),
Thở ra mà không hít vào thì mạng lên tiên (can và thận đã tuyệt trước).
Vai xo lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên lại có sắc xám hay đen cũng khó thoát chết.
Nói xàm bậy bạ hay không nói gì,
Hơi thở nặng mùi như xác chết, biết là không thọ (tâm tuyệt).
Nhân trung đầy hết lên, miệng và môi xanh,
Nên biết là ba ngày mạng không còn (mộc khắc thổ).
Chỗ giáp lưỡng quyền (hai gò má) đỏ, là bệnh tim đã lâu.
Miệng há, thở ra thì mạng khó sống (tỳ và phế tuyệt).
Chân đau, ngón sưng, đầu gối sưng to như cái đấu,
Nên biết là khó giữ mạng sống trong mười ngày (tỳ tuyệt).
Gân cổ lỏng lẻo biết chắc là chết (mạch Đốc tuyệt).
Trong lòng bàn tay không còn ngấn vết cũng sống không lâu (màng tim tuyệt).
Môi xanh, mình lạnh, nước tiểu cứ són ra (bọng đái tuyệt).
Thấy đồ ăn thức uống thì quay mặt đi, hẹn trong bốn ngày sẽ chết (can tuyệt)
Móng chân, móng tay đều xanh đen,
Xương sống đau, lưng nặng, trở mình khó,
Đó là xương tuyệt, năm ngày rồi xem.
Mình nặng, nước tiểu đỏ lại són ra không ngớt,
Đó là thịt tuyệt, sáu ngày là chết.
Móng chân, móng tay xanh, thường chửi rủa la thét,
Đó là gân tuyệt, khó qua được chín ngày.
Tóc cứng như sợi gai, nửa ngày là chết (ruột non tuyệt).
Lần áo, nói chuyện chết, mười phần biết là hỏng (tâm tuyệt).

995 Ngư rằng: Mạch lý u vi,


Chưa hay hình trạng mạch đi ít nhiều ?
Dẫn rằng: Tên mạch rất nhiều,
Hai mươi tám trang sách nêu rõ ràng.
Chẳng qua hai chữ âm dương,
1000 Muốn cho phân biệt coi thường lề biên.

Chu mạch thể trạng
( Hình trạng các mạch )
Dịch nghĩa:
Mạch Phù ấn xuống thấy yếu, nâng lên thấy mạnh,
Mạch
Trầm ấn xuống thấy mạnh, nâng lên thì không thấy,
Mạch
Trì, một hơi thở đến ba lượt.
Mạch
Sác một hơi thở đến sáu lần.
Mạch
Hoạt như chuỗi hạt trai và đi, lại mau,
Mạch
Sắc đi lại vướng như róc da tre.
Mạch
Đạiấn nổi thì đầy ngón tay, ấn chìm thì không có sức
Mạch
Hoãn so với mạch Trì nhanh hơn chút,
Mạch
Hồngnhư nước lụt nổi sóng lên.
Mạch
Thực ấn thấy găng tay, mạnh khác hẳn.
Mạch
Huyền thẳng rẵng như giương dây cung.
Mạch
Khẩn như là mới kéo dây, vặn chạc.
Mạch
Trường qua ngón tay, ra ngoài bộ.
Mạch
Khâu hai đầu có mà giữa thưa không.
Mạch
Vi như tơ nhện, khá dễ xét.
Mạch
Tế đi lại như sợi chỉ càng dễ coi,
Mạch
Nhu không có sức không ưa ấn.
Mạch
Nhược thì như muốn đứt, nửa có, nửa không,
Mạch
tuy mở rộng song không chắc,
Mạch
Cách, rất bền vững, như ấn vào da trống.
Mạch
Động như hạt đậu lăn, không có đi, lại,
Mạch
Tán chốc chốc mới thoáng tới đầu ngón tay.
Mạch
Phục ấn xuống sát xương mới thấy.
Mạch
Tuyệt thì không có hẳn, tìm cũng uổng công,
Mạch
Đoản ngay trong bộ cũng không tới.
Mạch
Xúc đến mau gấp, dần dần khoan đi là đáng mừng.
Mạch
Kết đi chậm, thỉnh thoảng lại dừng.
Mạch
Đại cũng dừng giữa chừng mà không trở lại được.

Tiều rằng: Tên mạch đã trao,


Mạch nào chuyên chủ bệnh nào xin nghe.
Dẫn rằng: Chẳng mếch chẳng phe,
Mạch nào chứng nấy, tay đè thì hay.
1005 Xiết bao trong sách nhiều thầy,
Sẵn lời ca quyết ta rày vẽ ngươi.

Chư mạch chủ bệnh
(Các bệnh thể hiện qua hình trạng mạch)
Dịch nghĩa:
Phù là bệnh phong, Khâu là bệnh huyết, Hoạt là nhiều đờm,
Thực là bệnh nhiệt, Huyền là bệnh lao, Khẩn là bị đau đớn.
Hồng là bệnh nhiệt, Vi là bệnh hàn, đều tích tụ dưới rốn.
Trầm là đau vì khí, Hoãn thì da tê.
Sắc là bị tổn tinh âm, hại huyết.
Trì cũng là bệnh lạnh, Phục là bệnh ở cách quan.
Nhu thường bị toát mồ hôi, riêng người già thường mắc.
Nhược là tinh khí thiếu, xương và thân thể ê ẩm,
Trường là khí tốt, Đoản thì khí bị bệnh.
Tế là khí ít, Đại là khí suy.
Xúc là bệnh nhiệt cùng cực, Kết là tích tụ.
Hư là bệnh kinh giật, Động là thoát bị ra máu liên tiếp.
Sác là bệnh trong lòng buồn bực, Đại là bệnh đang tiến.
Cách là bệnh di tinh, băng huyết, cũng lạ lùng thay.

Tiều rằng: Thầy thuốc nói thường,


Thất biểu, bát lý, chín đường mạch chi ?
Dẫn rằng: Ấy thật tục y,
1010 Thấy đâu nói đó, biết gì Mạch kinh,
Ta từng coi sách Mạch kinh,
Chín đường, biểu, lý, không danh mục đề.
Mạch kinh đã chẳng nêu đề,
Đến ông Trọng Cảnh ròng nghề nào biên.
1015 Ngư rằng: Gốc bởi ai truyền,
Cớ sao sách thuốc còn biên làm gì ?
Dẫn rằng: Sách thuốc thiếu chi,
"Hãn ngưu sung đống" câu ghi trước tường.
Gốc ra từ họ cao Dương,
1020. Đặt tên mạch ấy mạo Vương Thúc Hoà.
Nối sau, họ Đới đồng ra,
Mạch thư san ngộ cứu tra dọn rồi.
Đan khê chẳng nỡ bỏ trôi
Để cho hậu học làm dùi chiết trung.
1025. Hỡi ôi mạch lý nhiều ông,
Ông nào ý nấy, rồng rồng đua nhau.
Những kiêm nhau với giống nhau,
Coi vào mạch lý lộn nhầu như tương.
Nói cho rộng chước y phương,
1030. Rọt đồng hồ, cũng về đường tứ tông.
Phù, Trầm, Trì, Sác, tứ tông,
Tóm coi ba bộ cho ròng thời hay.
Nghìn xưa bốn mạch đón thay !
Lời ca tâm pháp ta nay thuộc lòng:

Tổng Khan tam bộ mạch pháp
( Tổng quát về phép xem mạch ba bộ )
Dịch nghĩa:
Mạch hội ở kinh Thái âm, xem ở đó có thể biết sống chết,
Thốn, Quan, Xích đủ cả tình hình âm dương.
Bằng ba cách ấn nổi, ấn giữa, ấn chìm mà biết mạch đi trì hay sác.
Thuận hay nghịch, thực hay hư đều ứng với ngũ hành.

Nào cửu hậu, nào thập biến, rất là phiền phức


Nhưng đều do tạng phủ hợp lại mà thành ra.
Mạch ba bộ mà đủ thì dễ biết bệnh,
Nhưng nếu khi đến, khi không đến thì thật khó có bằng cứ.

Mạch lên, xuống, đi, lại đều có dấu vết,


Nên tìm mạch, tay phải cứng và nằm ngang.
Duy có mạch Thiên hòa thì không ứng,
Nhảy gấp khác thường là thuộc kỳ kinh.

Một mạch mà biến hai lần chớ lo là lạ,


Nam hay nữ cũng vậy, nếu thấy nó giữa giờ Dần chớ lo sợ hão,
Năm mươi là số chót của phép Thái diễn,
Theo ngôi chủ tiên thiên mới biết là thiêng liêng.

Bốn mùa đều lấy khí của vị làm gốc,


Sáu Giáp kế tiếp nhau như anh với em.
Gọn gàng thay phép tứ mạch để lại cho ngàn đời,
Lập ra then chốt để xem động tĩnh thật giản dị và rõ ràng.

Chẳng cần hỏi ở kinh nào hay tạng phủ nào,


Chỉ cần đinh ninh xét rõ mạch mạnh hay yếu.
Muốn rõ gốc nguồn, không có sự khéo léo nào khác,
Chỉ cốt là khi xem mạch thì tâm thần phải trong sạch.

1035. Phép hay nhóm một thiên này,


Ý sâu, nghĩa kín, vốn thầy bách gia.
Thêm còn Y quán dọn tra
Kiêm lời tiểu tự biên ra hẳn hòi.
Cứ theo thiên ấy tóm coi,
1040. Thực hư ba bộ, biết mòi tử sinh.
Lạ thay mấy mạch kỳ kinh,
Thiên hoà, chẳng ứng nhiều anh dốt ngầm.
Ngư rằng: Tấm biển Y lâm,
Chữ "Tam Công" ấy, chủ cầm ý chi ?
1045. Dẫn rằng: Bốn chữ phép kỳ,
"Vọng, văn, vấn, thiết", bậc ghi ba tầng.
Thượng công là chữ "vọng văn",
Trung công chữ "vấn" chủ rằng thông minh.
Hạ công chữ "thiết" đã đành,
1050. Trong ba bậc ấy tài lành khác nhau.
Ba công nghề nghiệp lau làu,
Coi kinh Tố vấn thấy màu thợ hay.
Ngư, Tiều, đều dậy vòng tay,
Rằng : Xin lạy tạ gặp nay lời lành.
1055. Tuy chưa đến cửa cao minh,
Trước dà nghe dạy mở tranh lấp rào.
Mấy hồi lòng chịu miệng trao,
Phá ngu phát rậm, biết bao nhiêu lời.
Bấy lâu ngồi giếng xem trời,
1060. Dòm beo trong ống, đạo đời biết đâu.
Dẫn rằng: Bằng hữu giúp nhau,
Miễn cho trọn nghĩa theo câu ngũ thường.
Phần ta học hãy tầm thường,
Còn nhờ một bạn tê Đường Nhập Môn.
1065. Nhập Môn học có tiếng đồn,
Rộng thông kinh sử, trí khôn vượt bầy.
Nhà nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm xe.
Văn chương ai cũng muốn nghe,
1070. Phun châu, nhả ngọc báu khoe tinh thần.
Vì câu " sinh bất phùng thần",
Dẹp nghề cửa Khổng theo phần kỹ lưu.
Đan Kỳ đồ đệ trước sau,
Đều nhường tên ấy ở đầu y sinh.
1075. Ngư, Tiều nghe nói tỏ tình,
Nhìn rằng tên ấy tiền trình vốn quen,
Nhớ xưa cũng bạn sách đèn,
Nước loàn nên mới thân hèn lìa nhau.
Tấm lòng mơ tưởng bấy lâu,
1080. Chưa hay tông tích ở đâu đi tầm (tìm) .
Ngư, Tiều đang lối mừng thầm,
Xảy nghe ngoài cửa tiếng ngâm thơ rền,
Gió trong đưa dắt hơi lên,
Trước am Bảo Dưỡng nghe rền lời thơ.

Nhập môn ngâm thơ rằng:
Hoa cỏ ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi, có hay không ?
Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời hung,
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông

1085. Nghe rồi Đạo Dẫn vội vàng,


Bước ra trước cửa rước chàng Nhập Môn.
Ngư, Tiều nhìn thấy Nhập Môn,
Chạnh lòng bạn cũ, bôn chôn hỏi chào,
Miệng cười mà nước mắt trào,
1090. Mừng thương giao cách, biết bao nhiêu tình.
Mừng là mừng gặp bạn lành,
Thương là thương đạo ở mình hèn lâu.
Luống ôm báu tốt minh châu,
Ở nơi nước tối, ai hầu biết ai.
1095 Cách nhau mười mấy năm dài,
Gặp nhau một thuở, dễ phai lòng này.
Việc nhà ấm lạnh rủi may,
Cùng nhau trót đã tỏ bày căn duyên.
Môn rằng: Cám cảnh bạn hiền,
1100 Người sông, kẻ núi lưu liên bấy chầy.
Từ năm dứt hội rồng mây,
Những ngờ chúng bạn theo bầy tinh chiên.
Buồn xem trong đất U Yên,
Y quan xưa hóa nón chiên áo cầu.
1105 Người so cầm thú khác nhau,
Vì noi lễ nghĩa, giữ câu cương thường.
Tuy rằng ở cuộc tang thương,
Tấm lòng ngay thảo nào thường đổi xây.
Hai người tài trí vượt bầy,
1110 Chẳng tham danh lợi buổi này khá khen
Dẫn rằng: Mấy mặt như sen,
Đứng trong bùn lấm, mà bèn sạch trơn.
Chưa hay trong ý cao nhơn (nhân),
Lời thơ ngâm trước còn hờn, trông chi ?
1115 Môn rằng: Ta đọc sách y,
Thấy trong vận khí xây đi nhiều tòa,
Trời đông mà gió tây qua,
Hai hơi ấm mát chẳng hòa, đau dân.
Nhớ câu "vạn bệnh hồi xuân",
1120 Đòi ngày luống đợi Đông quân cứu đời.
Tiều rằng: Nào xiết lo đời,
"Vinh, khô" hai chữ, mặc trời chủ trương.
Thánh kinh còn chữ "xuân vương",
Trong, ngoài, há dễ lộn đường Hoa, Di.
1125 Đạo đời có thịnh có suy,
Hết cơn bế bĩ, đến kỳ thái hanh.
Ngư rằng: Gặp thuở thái hanh,
Bọn ta cũng đặng rạng danh nước nhà,
Chỉn e đời xuống càng xa,
1130 Tấm lòng nhân dục đắm sa lở bờ.
Dẫn rằng: Gặp bạn Thi,Thư,
Luống bàn lý sự, bao giờ cho xong.
Ai ai cũng có tấm lòng,
Biển sâu chưa hẳn đục trong lẽ nào.
1135 Nay xin mở tiệc tửu hào,
Phú thi vài lối tầm phào nghe chơi.
Ngư, Tiều, Môn, Dẫn bốn người,
Cùng nhau ăn uống vui cười ngỏa nguê.
Môn rằng: Nam, bắc, đông, tê (tây),
1140 Gặp nay thơ biết cảnh đề ra chi ?
Dẫn rằng: Nào phải trường thi,
Ra đề hạn vận, một khi buộc ràng !
Trượng phu có khí ngang tàng,
Rộng cho phóng tứ làm bàn thi tiên.
1145 Noi theo đạo cũ kim liên,
Cùng nhau xướng họa đoản thiên nối bài.
Mặc dù hai chữ tả hoài,
Việc xưa được mất bởi ai, cớ gì ?
Người xưa sao có thị phi ?
1150 Đạo đời sao có thịnh suy chẳng đồng ?
Học theo ngòi viết chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.
Họ Đường mở vận xướng đầu,
Sau Châu Đạo Dẫn nối theo họa liền.

Nhập môn xướng rằng:
Đời hoàng rồi đế, đế rồi vương,
Từ dấu vương sau bá dọn đường.
Ai cấm đỉnh Chu người Sở hỏi,
Máy trời đã mở tiệm giày sương.


Đạo Dẫn họa rằng:
Nghìn năm có một hội minh lương,
Vua thánh tôi hiền vững bốn phương.
Nhớ thuở khóc lân treo bút đạo,
Mặc tình trời đất với quân vương.


Nhập môn xướng rằng:
Tà thuyết đua ra lấp nẻo đường,
Bủa lời Dương, Mặc, nét Thân, Hàn.
Sự đời bóng rối cười ông Lão,
Nợ nước khô lâu khóc họ Trang.


Tiều họa rằng:
Nửa nghìn chưa gặp vận sông Vàng,
Năm nhạc, hơi che một chữ quang,
Khổng thánh còn mang lời hạ quỷ,
Mạnh hiền luống chịu tiếng Tàng Thương.


Nhập môn xướng rằng:
Kiếm phù Hán tổ đãi Hàn công,
Nệm gối Đường tông sánh vợ chồng.
Hai chữ cương thường như thế ấy,
Dầu lân, điềm phụng, vội khôn trông.


Ngư họa rằng:
Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,
Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.
Lửa đốt A Phòng đền lửa sách,
Hầm chôn hàng tốt trả hầm nhu (nho).


Đạo Dẫn ngâm rằng:
Thuở nào năm ngựa lội sông nam,
Lắm bậc tài danh mấy có làm
Người Địch chống chèo thề cũng luống,
Họ Đào vận bịch sức còn tham.


Nhập môn ngâm rằng:
Công danh bọn trước rủi xiêu bè,
Biển bụi lênh đênh sóng gió đè.
Rồng phụng Kinh Châu còn mắc núp,
Chó gà Tề khách chớ nên khoe.


Tiều ngâm rằng:
"Mông thỏ, cung chim" tiếng trước de,
Tôi người họ Lục chở đầy xe,
Kén tơ kéo hết ra thân nhộng,
Hơi tiếng kêu còn nhọc sức ve.


Ngư ngâm rằng:
Tàu ngựa cầm trâu, trước lỗi nghì.
Năm Hồ roi dấu lấp đường đi.
Việc đời hỏi tới người mò rận,
Nạn nước trông về kẻ bán ky.


Nhập Môn ngâm rằng:
Cuộc cờ thúc quý ngựa xe đua,
Nay chúa, mai tôi, lộn ấn bùa.
Một núi ông Đoàn riêng trốn khách,
Năm triều ngươi Đạo nhọc thờ vua.

1155 Bốn người họa xướng thơ rồi,


Thứ này Đạo Dẫn phản hồi Đông Thanh.
Dẫn rằng: Bên quán Đông Thanh,
Ngày mai đã đến giờ lành luyện đan.
Ta xin về chốn luyện đan,
1160 Ngư, Tiều ngươi phải theo Đường Nhập Môn.
Hai ngươi nay gập Nhập Môn,
Theo nhau cho trọn một phồn nho y,
Phần ta theo việc tiên y,
Ngày sau cũng tới Đan Kỳ hợp nhau.
1165 Ngư, Tiều nghe nói dàu dàu,
Muốn theo Đạo Dẫn trước sau vuông tròn.
Riêng hiềm một nỗi vợ con,
Trần duyên chưa mãn, khó lòn động tiên,
Trót đà chịu phép chân truyền,
1170 Ở am Bảo Dưỡng hỏi biên năm ngày.
Tuy chưa đủ thấy nghề hay,
Song nhờ dạy vẽ, công dày, ơn sâu.
Nửa đường đây lại chia nhau,
Khiến lòng bịn rịn, mặt sầu chẳng vui.
1175 Rót ba chén rượu phụng bồi,
Lễ đưa Đạo Dẫn, một hồi tạm ly.
Tiều rằng: Chưa đến Đan Kỳ,
Mười phần đường thuốc, mới đi năm phần.
Mấy ngày nghe đạo truân truân,
1180 Như mình ngồi giữa gió xuân hơi hòa.
Xưa rằng : "Ích hữu có ba",
Giúp ta lành ấy cũng là ngô sư.
Môn rằng: Đạo Dẫn đã đi,
Bữa nay cũng vắng Đan Kỳ thầy ta.
1185 Nhân khi gặp tiết thưởng hoa,
Bạn hiền mời nhóm chơi toà Thiên Thai.
Mỗi phen chơi cảnh Thiên thai,
Cầm, kỳ, thi , tửu, tiệc dai quên về,
Thầy đi chưa hẹn ngày về,
1190 Xin hai người hãy đề huề theo ta.
Theo ta tới chỗ riêng nhà,
Ở chờ vài bữa rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Nhập Môn đi,
Tách am Bảo Dưỡng đến Y quán rồi.
1195 Từ nay Y quán lần hồi,
Đến nhà thong thả tiệc bồi vui say.
Họ Bào, họ Mộng lối này,
Ở nơi đường thị lâu ngày học riêng.
Sẵn sàng nghề nghiệp thầy truyền,
1200 Vầy nhau bàn luận, hỏi biên phép mầu,
Lại đem vấn đáp chuyện đầu,
Tra vào sách thuốc, câu câu chẳng lầm.
Môn rằng: Bạn cũ thanh khâm,
Mừng nay đặng chữ đồng tâm giúp đời,
1205 Chi lan thơm cũng một hơi,
Chớ chê bỉ thử, mờ lời keo sơn.
Nhớ câu "Thủ thiện phụ nhân",
Nhờ người biết trước mở lần biết sau.
Mấy lời Đạo Dẫn vẽ đâu.
1210 Chỗ nào sót ý, phải âu xét bàn,
Miễn cho thấy đạo rõ ràng,
Chớ e hỏi dưới ngỡ ngàng hổ ngươi.
Tiều rằng: Muốn học làm người,
Đã đi cầu đạo, sợ cười chê chi.
1215 Chưa hay trước cõi rừng Y,
Có truông Âm Chất, việc gì kể ra ?
Môn rằng: Thứ nhất y khoa,
Chữ kêu "âm chất", thật là âm công.
Xưa rằng : Thầy thuốc học thông,
1220 Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh.
Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài,
Biết không, không biết mặc ai,
Chuyên nghề làm phải, chẳng mài thiệt hơn.
1225 Trọn mình noi nghĩa ở nhơn (nhân).
Bo bo giữ việc ra ơn, làm lành.
Bệnh nào cho thuốc chẳng lành,
Nhỏ lòng lo sợ, xét mình phải chăng.
Vốn không theo thói tham nhăng,
1230 Nhân khi bệnh ngặt, đòi ăn của nhiều.
Cũng không ghé mắt coi dèo,
Chỗ giàu trân trọng, chỗ nghèo đảo điên.
Đời nhiều thầy thuốc bất thiên,
Đủ tiền đủ vị, thiếu tiền hốt vơ.
1235 Mở coi trong sách y thư,
Nêu thiên Âm chấtchỗ nhờ sinh linh.
Phong, lao, các chứng thiên hình,
Gặp thời thương xót, bệnh tình khôn toan.
Chẳng nên láu táu khoe khoang,
1240 Lấy tiền ăn trước, cuốn đàng chạy sau.
Thấy người đau, giống mình đau,
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Ăn mày cũng đứa trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không.
1245 Tổ xưa thuốc điểm mắt rồng,
Thuốc châm môi cọp, khổ công dường nào,
Chữ Kinh "ngô dữ ngô bào".
Nghĩ dân cùng vật lẽ sao cũng đồng.
Nhớ câu "Y tích âm công ",
1250 Ta nên chứa phúc để dùng lâu thay !
Hỡi ai có bụng như vầy,
Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư.
Ngư rằng: Nhà đạo chẳng hư.
Bởi thầy trước để phúc dư đã đành.
1255 Đến như người tục làm lành,
Chưa hay âm chất có thành cùng chăng?
Môn rằng: Âm chất không ngần,
Việc làm lành ấy, há ngăn người nào ?
Giàu thời bắt chước xưa hào,
1260 Nợ lâu đốt khế, lúa vào đong ra,
Con ai cô quạnh mẹ cha,
Lớn khôn chọn gả, bé nhà gìn nuôi.
Thấy người đói khó chớ nguôi,
Chỗ cho cơm áo, chỗ giồi tiền lương,
1265 Chỗ thời thí dược, thí quan,
Chỗ thời giúp táng, trợ tang vuông tròn.
Bạn nghèo chôn bạn giùm con,
Nhà con vợ sẵn hầu non cho về.
Vàng quên, của gửi trả về,
1270 Thế thường, thay nạp, người bia nhờ mình.
Sang thời bắt chước xưa minh,
Án từ rửa sạch tình hình dân oan.
Noi câu "xuất tội hoạt hàng ",
Cứu tai muôn họ, dấy đàng lợi sinh,
1275 Nghèo thời bắt chước xưa thanh,
Gặp nàn trút đãy, cứu sinh mạng người.
Tập theo nghề thuốc cứu người,
Cứu đui, cứu ngọng, ai cười trối thây.
Phóng hư, phóng hạc theo bầy,
1280 Bắc cầu đưa kiến, làm thầy quạ đau.
Hèn thời bắt chước xưa tu,
Vá giày, vá dép, công phu lợp nhà.
Hoặc khi khâm liệm, khiêng ma,
Việc người khó nhọc, thảy ra sức giùm.
1285 Ấy là âm chất cả dùng,
Lấy câu "vi thiện" kể chung phẩm người.
Đến như âm chất gốc trời,
Ở câu hiếu thuận, đời đời bia son.
Người xưa giữ vẹn đạo con,
1290 Thảo nhờ cha mẹ, thuận tròn nghĩa thân.
Sống thời bắt chước thầy Tăng,
Hôm mai nuôi miệng lại phăn nuôi lòng.
Thác thời bắt chước Chu công,
"Lành noi lành nối", dấu ông chú rằng.
1295 Thường thời bắt chước vua Văn,
Sớm khuya thăm hỏi, bữa ăn kính hầu.
Biến thời bắt chước họ Ngu,
Lần lần dỗ dắt, khỏi câu gian tà.
Chuyện khôn xiết kể trăm nhà,
1300 Kia làm con thảo, sinh ra cháu lành.
Hễ như mấy kẻ có danh,
Hai mươi bốn thảo, tiếng lành đồn xa,
Bằng ai bắt chước nhà va,
Hết lòng thảo thuận, ấy là âm công.
1305 Cho hay gốc lớn vững trồng,
Vậy sau dòng lớn mới không mối dường.
Coi pho Vĩnh loại kiềm phương,
Thể nhân vị lục, thời tường các danh.
Tiều rằng: Hỏi việc bất bình,
1310 Xưa nay nhiều kẻ làm lành làm duyên.
Những người cùng Phật, cùng Tiên,
Cất chùa, cất miễu, bạc tiền đua nhau.
Những người đắp sửa đường cầu,
Làm chay hát bội, của giàu thí ra,
1315 Ta nghe làm phúc nhiều nhà,
Cớ sao mắc họa lại ra bần xừ ?
Môn rằng: Đời lắm danh hư,
So câu "tích thiện hữu dư " sao nhằm ?
Kẻ giàu muốn đặng nghìn trăm,
1320 Cho vay một vốn, bốn năm mười lời,
Kẻ sang cậy thế lấn hơi,
Tham lam của quấy, ăn chơi mấy ngày
Lấy câu hãn huyết chi tài,
Cúng cho chùa miễu, nào ai chứng lòng.
1325 Trong mình thảo thuận vốn không,
Gọi là làm phước, phước trồng vào đâu?
Coi câu "Thiện ác đáo đầu..",
Lành đâu có trả, dữ đâu có đền.
Người tua xét lại hai bên,
1330 Ít lành, nhiều dữ,chẳng nên trách trời.
Tiều rằng: Trước Đạo Dẫn mời,
Đến am Bảo Dưỡng kề nơi truông này.
Chưa hay Âm Chất truông này,
Có am Bảo Dưỡng ở vầy theo chi ?
1335 Môn rằng: Chỗ dạy nhà y,
Đã tu âm chất phải vì tấm thân.
Tiếc yêu hai chữ "tinh thần",
Nhảy vòng thực sắc, theo phần đắm lung.
Dù không biết chước gìn long,
1340 Theo bề Lục Tặc hại trong lẽ trời.
Ở mình đã tối lẽ trời,
Làm thầy cứu mạng giúp đời sao xong,
Muốn cho thần sáng, tinh ròng,
Giữ nuôi khí huyết, ngăn lòng dục sâu,
1345 Thử coi Tố vấn thiên đầu,
Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau rõ ràng,
Kỳ Hoàng xưa đẵ mở đàng,
Sách y nay có lời bàn Thiên chân.
Каталог: uploads -> Z2016
uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Z2016 -> Lesson 1 : my family

tải về 157.05 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương