NGƯ tiều y thuật vấN ĐÁp nguyễN ĐÌnh chiểU



tải về 157.05 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích157.05 Kb.
#26612
1   2   3   4

Thiên chân tiết giải rõ phân,
1350 Coi vào thấy gốc, giữ thân nuôi lòng.
Muốn bề ăn ở đặng xong.
Rượu trà có bữa, việc phòng chớ dâm.
Người nào đàm hỏa hư âm,
Lời bàn Nhự đạm phải tầm (tìm) chín coi,
1355 Người nào tình dục không soi,
Lời bàn Âm hỏa phải coi cho ròng.
Cho hay thực sắc đắm lòng,
Người nhiều thèm muốn, khá phòng khá răn.
Ta nghe thánh trước bảo răn :
1360 "Đau hay cầu thuốc, chi bằng ngừa đau".
Biết người trước khỏi bệnh đau,
Máu hơi đầy đủ, tuổi đầu sống dai.
Tiều rằng: Xưa ấy sống dai,
Nay nhiều chết trẻ, cũng loài vi nhân.
1365 Cớ sao thọ yểu khác phần,
Hoặc là thiên quý độ lần sai chăng ?
Nhập môn giây phút than rằng:
"Xưa nay một lẽ", thầy hằng dạy ta.
Người xưa ăn ở thật thà,
1370 Ít ai đắm rượu tham hoa quên mình.
Vốn không làm quấy nhọc hình,
Nào lo mắc bệnh thất tình, lục dâm.
"Thiên niên" hai chữ trọn cầm,
Vừa chừng trăm tuổi mới trầm về quê.
1375 Người nay ăn ở khác bề,
Rượu dầm trong bụng, sắc kề bên thân.
No say rồi lửa dục hừng,
Đốt trong khí huyết, tinh thần còn chi ?
Chịu đau lấy chứng nan y,
1380 Bốn năm mươi tuổi chết đi uổng đời,
Coi thiên Bảo dưỡng mấy lời,
Biết người thọ, yểu, số trời nào riêng,
Thường nghe thiên quý số biên,
Con trai, con gái, xưa truyền như nay,
1385 Gái sinh, bảy tuổi răng thay,
Tóc lần lần rậm, phần đầy hơi âm.
Hai bảy thông mạch Xung Nhâm,
Gọi "thiên quý chí", mở trầm nguyệt kinh.
Ba bảy hơi thận quân bình,
1390 Răng cùng mọc đủ, trong mình mới sung,
Bốn bảy gân cốt đều sung,
Tóc đen dài tóc, hình dung tráng phì.
Năm bảy Dương minh mạch suy,
Tóc dài hầu rụng, diện bì hết non.
1395 Sáu bảy hơi dương trên mòn,
Tóc râm mặt ngấn, ít còn như xưa.
Bảy bảy Xung Nhâm mạch hư,
Gọi "thiên quý kiệt" mới từ đường kinh.
Hỡi ôi ! phận gái chữ trinh,
140 Bốn mươi chín tuổi, hết sinh đẻ rồi.
Con trai tám tuổi thận bồi,
Răng thay, tóc rậm, vừa ngôi tiểu đồng,
Hai tám hơi thận mới sung,
Rằng "thiên quý chí" mạch thông, tinh đầy.
1405 Ba tám răng cứng, tóc mây,
Bốn tám xương đá, gân dây, mạnh kỳ.
Năm tám hơi thận mới suy,
Tóc răng hầu mỏi, diện bì hầu tiêu.
Sáu tám tóc rụng răng xiêu,
1410 Bảy tám xương mỏi, gân teo, da dùn.
Tám tám tạng phủ đều thun,
Rằng "thiên quý kiệt" lạnh lùng hơi dương.
Cho hay thiên quý số thường,
Con trai, con gái, một đường xưa nay,
1415 Bằng ai bảo dưỡng thời may,
Ngoài tuần thiên quý còn bày gót lân.
Bằng ai tửu sắc quá chừng,
Dầu còn thiên quý trong tuần, cũng hư.
Tiều rằng: Rõ lẽ nên hư,
1420 "Dưỡng sinh" hai chữ tinh như lời này,
Cớ sao còn kẻ chơi mây,
Lìa đời, dứt thói, gọi thầy tu tiên ?
Môn rằng: Một việc tu tiên,
Xưa vua Hoàng Đế phép truyền gây ra.
1425 Sau rồi phép ấy sai ngoa,
Đời sau phương sĩ lấy tà hoặc nhân.
Vậy thà theo lẽ an phần,
Trăm năm nhờ mạng trong thân có trời.
Coi Vương Bao tụng mấy lời,
1430 Sáng giơ đường chính, dạy đời báu to,
Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,
Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.
Làm chi như họ Kiều, Tùng.
Thổ hà, xì hít hơi hung luyện hình.
1435 Xin lòng nhân dục cho thanh,
Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình.
Xin lòng luân lý cho minh,
Nuôi lòng nào phải đọc kinh Âm phù.
Cho hay Tiên, Phật rằng tu,
1440 Cũng trong bảo dưỡng đương đầu trổ ra.
Cả than Đạo Dẫn bạn ta,
Học y một cửa, nay đà tách thân.
Lòng va muốn chữ xuất trần,
Để câu phụ tử quân thần mặc ai.
1445 Tiếc đời ôm đức cưu tài,
Sĩ đều có khí khôn nài đó sao.
Ngư rằng: Thời vậy nài sao.
Dù Tiên, dù Phật, bề nào cũng xong.
Nay ta còn chỗ nghi lòng,
1450 Nghề y, nghề bốc, khác dòng nhau xa.
Cờ sao ba tượng trong tòa,
Tiên thiên đồ ấy treo ra làm gì ?
Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
1455 Tiên thiên, một bức đồ khai,
Để coi phương hướng muôn loài hóa sinh.
Kiền, tây bắc, Tuất, Hợi đình,
Khảm phương chính bắc, ngôi đành Tý cung,
Cấn, đông bắc, Sửu, Dần thông,
1460 Chấn ngôi đương Mão, chính đông phương trời.
Tốn, đông nam, Thìn, Tỵ vời,
Ly cung đương Ngọ, hướng trời chính nam.
Khôn : Mùi, Thân, phía tây nam,
Đoài đương ngôi Dậu, chính nhằm tây phương.
1465 Xét trong tám hướng âm, dương,
Máy trời xây bủa, bốn phương năm hành.
Hậu thiên Ly, Khảm vẽ hình.
Cho hay khí huyết trong mình chủ trương.
Ly là hơi, lửa, thuộc dương,
1470 Khảm là nước, máu, lẽ thường thuộc âm.
Song mà Ly trống vốn âm,
Khảm cung đầy giữa, thật cầm chân dương.
Ấy chia hư thực âm dương,
Nước đầy, lửa trống, khôn lường máy sâu.
1475 Mạnh thời nước lửa, hoà nhau,
Yếu thời nước lửa chia đau trong mình.
Đạo y nửa ở Dịch kinh,
Chưa thông lẽ Dịch, sao rành chước y.
Tổ rằng "Muốn học Hiên Kỳ,
1480 Trước tua đọc quẻ Bào Hy mới tường ".
Tiều rằng: Một tượng Minh Đường,
Một đồ khí hậu chủ trương việc gì ?
Môn rằng: Trên dưới hai nghì,
Giữa thì người vật, tóm ghi một đồ.
1485 Vẽ mười vòng nhóm một đồ,
Để coi khí hậu xây bồ ứng nhau.
Năm ngày một hậu đến xâu,
Ba hậu một khí, cứ đầu toán ra.
Hai khí một tháng kể ra,
1490 Giáp mười hai tháng, ấy là một niên.
Một niên chia bốn mùa riêng,
Hai mươi bốn tiết, theo liền dựng giao.
Đoanh xây hai chục tám sao,
Trải ba mươi sáu cung nào chẳng xuân.
1495 Mỗi năm khí hậu xây vần,
Mười vòng lớn nhỏ, có chừng thuỷ chung.
Việc nguời, lẽ vật ở trong,
Một hồ trời đất, mười vòng tóm giơ.
Lặng lòng coi bức đồ thơ (thư),
1500 Ba ngàn thế giới, thấy bờ cõi xinh.
Sách châm lại vẽ ba hình,
Ba hình người ấy gọi Minh Đường đồ.
Một hình nằm sấp để đo,
Thái dương kinh túc, huyệt dò sau lưng.
1505 Một hình nằm ngửa làm chừng,
Dương minh kinh túc, huyệt ngưng trước mình,
Một hình ngồi mé hông trinh,
Thiếu dương kinh túc, huyệt hành hai bên.
Ba hình tóm lại một nền,
1515 Ba trăm sáu chục năm tên huyệt rời.
Rộng coi kinh lạc nơi nơi,
Minh người đủ ứng độ trời một niên,
Dón coi thủ túc đôi bên,
Trong ba âm, với ngoài liền ba dương.
1515 Mười hai kinh huyệt chia đường,
Sáu du, sáu hợp, chỗ thường phép châm.
Bệnh nào đau ở kinh âm,
Huyệt du cấp cứu, khỏi lầm tai ương.
Bệnh nào đau ở kinh dương,
1520. Cứu theo huyệt hợp ngăn đường tà đi.
Cứ theo du hợp phép ghi,
Chân trời kíp tỉnh, bệnh gì còn lo.
Kinh dương sáu phủ đếm cho,
Bảy mươi hai huyệt, đủ dò tay chân,
1525 Kinh âm, năm tạng có chừng,
Sáu mươi chỗ huyệt, tay chân chia đều.
Kể mười hai huyệt tóm nêu,
Có lời toát yếu, đặt điều thơ ca.
Sáu âm, sáu dương đã ca,
Lại thêm khí huyết theo ra sáu bài,
Kể thơ, mười có tám bài,
Âm dương khí huyết theo loài quán thông.
Muốn cho châm cứu phép ròng,
Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng thi ca.

 

* HẾT *
Каталог: uploads -> Z2016
uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Z2016 -> Lesson 1 : my family

tải về 157.05 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương