Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc phầN 3 M. T. D. X. M. T. D. X


Sanavasin52 (Thương Na Hòa Tu, Thai Y) năm -550 đến -470



tải về 1.04 Mb.
trang8/21
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.04 Mb.
#30032
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21

3. Sanavasin52 (Thương Na Hòa Tu, Thai Y) năm -550 đến -470

"Sana" là bào thai, "vasin" là y (áo). "Sanavasin" có nghĩa là "thai y". Do nguyện lực đời trước, nên từ lúc sanh ra Tổ Sanavasin đã có áo sẵn mặc theo thân. Đến lúc ngài lớn lên thì cái áo ấy cũng rộng lớn theo vừa với mình. Tên thật của ngài là Sambhuta, họ Tỳ Xá Đa, người nước Mathura (Ma Đồ La), cha tên Lâm Thắng, mẹ tên Kiều Xa Da. Ngài nằm trong thai mẹ 6 năm mới sanh ra. Khi ngài Ànanda độ cho ngài xuất gia thì cái áo ấy biến thành áo sa di. Đến khi ngài thọ giới Tỳ kheo thì áo ấy lại biến thành áo tăng-già-lê (sanghàti). Tổ Sanavasin thâu nhận đệ tử là Upagupta, rồi đến nước Kế Tân (Kasmira, Cachemire) hoằng hóa.

Đến khi gần tịch diệt, Tổ truyền pháp cho Upagupta với bài kệ :

Phi pháp diệc phi tâm,

Vô tâm diệc vô pháp.

Thuyết thị tâm pháp thời

Thị pháp phi tâm pháp.53

Truyền pháp xong, Tổ vào núi Bạch Tượng, phía nam nước Kế Tân, ngồi nhập định. Một hôm, thấy nhóm 500 đệ tử của Upagupta thường hay lười biếng và khinh mạn, Tổ liền đến cảnh tỉnh họ. Đến nơi, Upagupta đi vắng, Tổ lại tòa của Upagupta ngồi. Các đệ tử của Upagupta bực tức, không phục, chạy đi báo cho thầy hay. Upagupta về đến, thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song các đệ tử vẫn còn tâm khinh mạn chẳng kính. Tổ lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy xuống. Tổ hỏi Upagupta :

– Ngươi biết gì chăng ?

Upagupta bèn nhập chánh định để xem xét, nhưng không thể hiểu; ngài nói:

– Bạch thầy, điềm lành này do chánh định gì mà xuất hiện ?

– Đây là chánh định Long Phấn Tấn. Còn cả 500 thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như Lai, hàng Bích Chi không thể biết. Chánh định của Bích Chi, hàng La Hán không thể biết. Chánh định của thầy ta là Ànanda, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu có thể biết. Chánh định ấy là do tâm không sanh diệt trụ trong sức đại từ, hằng cung kính lẫn nhau. Được như thế mới có thể biết.

Đệ tử của Upagupta trông thấy sự kỳ diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Tổ Sanavasin liền nói kệ :

Thông đạt phi bỉ thử,

Chí thánh vô trường đoản.

Nhữ trừ khinh mạn ý,

Tất đắc A-la-hán.54

Sau đó Tổ liền bay lên hư không, hiện thập bát biến55, dùng lửa tam muội tự thiêu. Upagupta cùng các đệ tử thu nhặt xá lợi, xây tháp cúng dường.



4. Upagupta56 (Ưu Ba Cúc Đa) năm -500 đến -430

Tổ Upagupta là con của trưởng giả Gupta ở xứ Mathura. Lúc 12 tuổi ngài được Tổ Sanavasin dạy cho pháp tu buộc niệm như sau: Nếu khởi niệm ác thì đặt một hòn đá đen bên trái; nếu khởi niệm thiện thì đặt một hòn đá trắng bên phải. Upagupta chú tâm thực hành đến ngày thứ 7 thì chỉ thấy toàn đá trắng. Tổ Sanavasin liền nói pháp Tứ Diệu Đế cho nghe. Nghe xong Upagupta liền chứng được quả Tu-đà-hoàn (Sotàpatti).

Năm 17 tuổi, Upagupta xin xuất gia. Tổ Sanavasin hỏi :

– Ngươi được bao nhiêu tuổi ?

– Bạch thầy, con được 17 tuổi.

– Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi ?

Upagupta hỏi lại :

– Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc ?

– Tóc ta bạc, không phải tâm ta bạc.

– Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải tánh con 17 tuổi.

Tổ Sanavasin hoan hỉ nhận cho Upagupta xuất gia làm thị giả. Sau đó Upagupta thực tập thiền quán các pháp Khổ, Không, Vô thường, chứng quả A-na- hàm (Anàgàmi). Đến 20 tuổi, khi thọ giới Tỳ kheo thì ngài chứng quả A-la-hán (Arahattà). Chẳng bao lâu ngài Upagupta được Tổ Sanavasin truyền tâm ấn.

Tổ Upagupta hoằng pháp tại xứ Mathura, cảm hóa rất đông dân chúng qui ngưởng Phật pháp, có nhiều người đã chứng thánh quả. Mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ Phật pháp, Tổ để vào thất đá một thẻ tre. Sau khi truyền Chánh Pháp lại cho đệ tử là Dhitaka (Đề Đa Ca) với bài kệ :

Tâm tự bổn lai tâm,

Bổn tâm phi hữu pháp.

Hữu pháp hữu bổn tâm,

Phi tâm phi bổn pháp.57

Tổ Upagupta ngồi kiết già thị tịch. Lúc bấy giờ ngôi thất đá bề dài 18 thước tay (độ 4m5), bề ngang 12 thước tay (độ 3m) đã đầy ặp cả thẻ tre. Tổ Dhitaka và môn đệ mở cửa thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu ngài, rồi thu lượm xá lợi xây tháp cúng dường.
Theo một số học giả thì thầy của vua Asoka là Moggaliputta-tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) và Tổ Upagupta (Ưu Ba Cúc Đa) có lẽ là một người. Nhưng theo soạn giả thì thuyết đó không đúng, vì vua Asoka ở vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước tây lịch, còn Tổ Upagupta sống vào đầu thế kỷ thứ 5 trước tây lịch, cách nhau khoảng hai thế kỷ.

Theo "Từ Điển Phật Học Huệ Quang", tham cứu tài liệu "Thiện-Kiến Luật Tỳ-bà-sa 1, 2" và "Phật Giáo Tiểu Sử 2", thì Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta-tissa) là một vị A-la-hán, sống vào thời vua A-dục, ở Ấn Độ. Vì ngài là Đại Phạm thiên Đế-tu từ cõi trời Phạm thiên giáng sanh vào gia đình Bà-la-môn Mục Kiền Liên, cho nên được gọi là Mục Kiền Liên Tử Đế Tu. Năm 16 tuổi, sư theo ngài Sigava (Tư Già Bà) làm sa di, sau thọ cụ túc giới với ngài Candavajji (Chiên Đà Bạt Xà). Ngài tinh thông 3 tạng kinh, chứng quả A-la-hán, sau được ngài Sigava phó pháp, làm thầy vua A-dục, giáo hóa nhân dân.

Theo lịch sử, vua A-dục trị vì từ năm -272 đến năm -236.

5. Dhitaka58 (Đề Đa Ca) năm -460 đến -380

Tổ Dhitaka, người nước Magadha (Ma Kiệt Đà), tên thật là Hương Tượng, thọ giới cụ túc với Tổ Upagupta hồi 20 tuổi. Lúc cầu xuất gia, Tổ Upagupta hỏi :

– Thân ngươi xuất gia hay tâm ngươi xuất gia ?

– Bạch thầy, con đến xin xuất gia không phải vì thân, cũng không phải vì tâm. Cái tâm chẳng sanh, chẳng diệt, là thường đạo, đồng với chư Phật. Tâm không hình tướng, thân cũng như vậy.

Vào lễ xuất gia, vừa nghe giới xong, Tổ liền đắc Tu-đà-hoàn (Sotàpatti). Đến lúc yết-ma59 lần thứ nhất, Tổ đắc quả Tư-đà-hàm (Sakadàgàmi). Đến lúc yết-ma lần thứ nhì, Tổ đắc quả A-na-hàm (Anàgàmi). Đến lúc yết-ma lần thứ ba, Tổ đắc quả A-la-hán (Arahattà). Sau được Tổ Upagupta truyền tâm ấn.

Sau khi nhận lãnh Chánh Pháp, Tổ Dhitaka đến Trung Ấn giáo hóa. Nơi đây có 8.000 vị đại tiên, dưới sự lãnh đạo của tiên trưởng Michaka (Di Già Ca). Nghe Tổ đến, Michaka triệu tập tiên chúng đến yết kiến Tổ và thưa :

– Xưa tôi cùng thầy đồng sanh cõi trời Phạm Thiên. Tôi gặp tiên A Tư Đà (Asita) truyền cho pháp tiên. Thầy gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền định. Từ đó cách nhau đã đến 6 kiếp.

– Lời tiên nhơn nói quả đúng như vậy. Song ông chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến đâu ?

– Tôi tuy chưa gặp bậc chí thánh, song tiên A Tư Đà có thọ ký rằng "Sáu kiếp về sau, tôi sẽ nhờ bạn đồng học mà chứng quả giải thoát". Nay gặp nhau đây, chắc là đúng như vậy rồi.

– Ông đã biết như vậy thì cần phải xuất gia. Pháp tiên là đường nhỏ, không thể đưa người đến giải thoát. Ta hóa đạo đã lâu, cũng muốn dừng nghỉ. Nếu ông thật muốn hướng về đại pháp thì không nên chậm trễ.

Michaka nghe nói vui mừng, liền xin xuất gia thọ cụ túc giới. Ít lâu sau được Tổ Dhitaka gọi đến bảo :

– Xưa kia Như Lai đã trao Chánh Pháp nhãn tạng cho Mahà Kassapa, lần lượt truyền đến ta. Nay ta trao lại cho ông, phải gìn giữ cẩn thận chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ :

Thông đạt bổn tâm pháp,

Vô pháp vô phi pháp.

Ngộ liễu đồng vị ngộ,

Vô tâm diệc vô pháp.60

Theo phẩm Trì Chánh Pháp trong kinh Đại Bi 2, và theo kinh Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện 5, Tổ Dhitaka có đại thần thông, đại oai lực, thuyết pháp không mệt mỏi. Tổ giáng sanh ở Aryajaya, giáo hóa ở các nước Tukhara, Kàmarùpa và Malava. Tổ tịch ở thành Ujjayani nước Malava.


tải về 1.04 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương