Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc phầN 3 M. T. D. X. M. T. D. X


Buddhamitra75 (Phật Đà Mật Đa) năm -360 đến -290



tải về 1.04 Mb.
trang10/21
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.04 Mb.
#30032
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21

9. Buddhamitra75 (Phật Đà Mật Đa) năm -360 đến -290

Tổ Buddhamitra là người nước Đề Già (Đề Ca), họ Visàkhà (Tỳ Xá Khư). Từ lúc lọt lòng mẹ đến 50 tuổi, ngài chưa từng nói một lời, chưa từng đi một bước. Đến khi gặp Tổ Buddhanandi, Tổ nói :

– Người này đời trước thông minh lắm. Ở trong Phật pháp, phát đại bi tâm muốn làm lợi ích lớn cho chúng sanh, nên thường nguyện “Tôi nguyện thọ sanh chỗ nào không bị tình phụ tử ràng buộc, tùy duyên lành kia liền được giải thoát”. Miệng không nói là tiêu biểu cho đạo không tịch. Chơn không đi là tiêu biểu cho pháp không có đến đi.

Cha mẹ ngài nghe lời giải thích của Tổ, vui vẻ cho ngài theo Tổ xuất gia. Sau khi đắc pháp, thấy vua trong xứ sùng tín ngoại đạo, Tổ Buddhamitra cầm cờ đỏ đến đứng trước đền vua nhiều lần. Vua triệu vào, Tổ xin được luận nghị với ngoại đạo. Tổ dùng Vô Phương Luận76 để khuất phục đối phương và cảm hóa vua, khiến vua tin Chánh Pháp. Đồng thời 500 đệ tử phái Nigantha cũng xin quay về với Phật pháp.

Sau đó, Tổ Buddhamitra du hóa khắp nơi. Đến trung Ấn, Tổ gặp ông trưởng giả tên Hương Cái dắt con là Nan Sanh đến yết kiến Tổ và thưa :

– Thằng bé này ở trong thai mẹ ngót 60 năm, do đó tôi đặt tên cho nó là Nan Sanh. Có một tiên ông đến xem tướng nó rồi nói “Thằng nhỏ này hẳn là tướng phi phàm, sẽ là pháp khí đại thừa khi gặp Bồ tát hóa độ”. Bởi có duyên lành nên nay được gặp ngài. Tôi nguyện cho nó theo ngài xuất gia học đạo.

Tổ hoan hỉ chấp thuận. Trong buổi lễ xuất gia thọ giới của Nan Sanh bỗng có ánh sáng mát chiếu khắp chỗ Nan Sanh ngồi. Thấy cơ duyên hóa độ sắp viên mãn, Tổ gọi Nan Sanh đến dặn dò :

– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai, nay ta trao cho ngươi. Ngươi hãy gìn giữ cẩn thận và truyền trao đừng cho đoạn dứt. Hãy nghe ta nói kệ đây :

Chơn lý bổn vô danh,

Nhơn danh hiển chơn lý.

Thọ đắc chơn thật pháp,

Phi chơn diệc phi ngụy.77

Nói kệ xong, Tổ ngồi kiết già nhập chánh định, hiện tướng niết bàn. Nan Sanh cùng đồ chúng làm lễ hỏa táng xong, thu lượm xá lợi xây tháp thờ tại Nàlandà.


10. Pàrsva78 (Hiếp Tôn Giả) năm -360 đến -270

Tổ Pàrsva, tên thật là Nan Sanh, là người xứ Gandhara (Càn Đà La, hiện nay là Pakistan), giáp ranh xứ Kasmira, miền bắc Ấn Độ. Ngài ở trong bụng mẹ 60 năm. Lúc ngài sắp sanh, thân phụ nằm mộng thấy một con voi trắng to trên lưng có một bảo tọa, trên bảo tọa có hột minh châu, từ ngoài cửa đi vào chiếu sáng khắp nhà. Ông giựt mình tỉnh giấc thì ngài ra đời. Tuy vừa mới sanh ra mà râu tóc và lông mày đều bạc.

Năm 80 tuổi79 ngài mới xuất gia với Tổ Buddhamitra. Các Tỳ kheo trẻ chê cười ngài già yếu, không tiến tu được, chỉ ăn no rồi ngủ. Ngài nghe qua liền tự phát nguyện “Nếu không thông hiểu lý ba tạng kinh, đoạn dứt tham dục để được 6 thần thông và 8 giải thoát80, thì nguyện trọn đời không đặt lưng xuống chiếu”. Do đó ngài được mệnh danh là Hiếp81 Tôn Giả, tức là người không nằm sát hông xuống. Trải qua 3 năm, ngài đoạn dứt ngũ dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc), chứng được Tam Minh82, đắc quả A-la-hán và được truyền tâm ấn làm Tổ thứ 10.

Tổ Pàrsva là luận sư Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin).

Về sau, Tổ đến thủ đô Pàtaliputta (Hoa Thị), lúc bấy giờ Bà-la-môn giáo rất thịnh hành, Phật giáo bị suy vi. Tổ biện luận và thuyết phục được rất nhiều ngoại đạo. Một hôm, trong khi tạm nghỉ ngơi dưới cây đại thọ, Tổ lấy tay chỉ xuống đất, bảo đồ chúng :

– Khi nào đất này biến thành màu vàng, sẽ có một thánh nhơn vào hội.

Tổ vừa dứt lời, đất liền biến thành màu vàng. Chốc lát có một thanh niên con nhà giàu có, đến trước mặt Tổ, chấp tay đảnh lễ. Tổ hỏi :

– Ngươi từ đâu đến ?

– Tâm con chẳng phải đến.

– Ngươi dừng chỗ nào ?

– Tâm con chẳng phải dừng.

– Ngươi chẳng định sao ?

– Chư Phật cũng thế.

– Ngươi chẳng phải chư Phật.

– Chư Phật cũng chẳng phải.

Tổ biết ý Punyayasa rất thiết tha cầu đạo, nên độ cho xuất gia và truyền giới cụ túc. Ít lâu sau, Tổ Pàrsva gọi Punyayasa đến bảo :

– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai, nay trao lại cho ngươi, ngươi phải khéo lưu truyền, chớ để dứt mất. Hãy nghe ta nói kệ :

Chơn thể tự nhiên chơn,

Nhơn chơn thuyết hữu lý.

Lãnh đắc chơn chơn pháp,

Vô hành diệc vô chỉ.83

Truyền pháp xong, Tổ Pàrsva ngồi kiết già, hiện các thần biến rồi vào niết bàn. Đồ chúng hỏa táng thân ngài, thu được xá lợi nhiều vô số, phải lấy y bọc đem về xây tháp cúng dường.



11. Punyayasa84 (Phú Na Dạ Xa) năm -300 đến -230

Tổ Punyayasa sanh tại thủ đô Pàtaliputta (Hoa Thị), hiện nay là Patna. Tổ là con thứ 7 của Trưởng giả Không Thân (Bảo Thân ?). Thuở nhỏ, ngài có tâm tư bình thản. Ngài thường nói với các anh :

– Nếu có bậc đại sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết pháp, em quyết đến đó gần gũi tùy hỷ.

Khi Tổ Pàrsva đến Pàtaliputta chấn hưng Phật pháp, ngài liền đến đảnh lễ tham vấn và được thu nhận làm đệ tử. Sau khi được truyền tâm ấn, ngài hoằng pháp thù thắng, giáo hóa vô lượng chúng sanh, có đến 200 vị chứng quả A-la-hán. Đạo đức của Tổ Punyayasa vang khắp miền bắc và trung Ấn.

Một hôm, Tổ Punyayasa đang thuyết pháp tại Benares, có một vị trưởng giả bước vào trong hội. Tổ hỏi đồ chúng :

– Các ngươi có biết người mới vào đây là ai chăng ? Xưa kia đức Phật có huyền ký rằng “Sau khi ta diệt độ khoảng 300 năm, sẽ có một vị thánh nhơn ra đời tên Asvaghosa, sanh tại Benares, nói pháp nơi thành Pàtaliputta, khắc phục hết các ngoại đạo, độ người vô lượng”.

Asvaghosa (Mã Minh) nghe nói đúng tên mình, thầm khen, bước ra đảnh lễ Tổ và hỏi :

– Tôi muốn biết Phật, thế nào là Phật ?

– Ông muốn biết Phật ? Chẳng biết ấy là phải.

– Đã chẳng biết Phật thì đâu biết là phải !

– Ông đã chẳng biết Phật, tại sao biết chẳng phải ?

– Đây thật là nghĩa cưa.

– Đó là nghĩa cây. Ông nói nghĩa cưa là thế nào ?

– Tôi cùng thầy phân ra bằng nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao ?

– Ngươi bị ta xẻ.

Asvaghosa liền ngộ được thắng nghĩa, vui thích xin xuất gia làm đệ tử. Khi cơ duyên giáo hóa viên mãn, Tổ Punyayasa gọi Asvaghosa đến dặn dò :

– Ngươi nên chuyển bánh xe pháp, làm vị Tổ thứ 12. Xưa, đại Pháp nhãn tạng của Như Lai trao cho Tổ Mahà Kassapa, lần lượt truyền đến ta. Nay ta trao lại cho ngươi để tiếp tục truyền thừa. Hãy nghe ta nói kệ :

Mê ngộ như ẩn hiện,

Minh ám bất tương ly.

Kim phó ẩn hiện pháp,

Phi nhất diệc phi nhị.85

Truyền pháp xong, Tổ hiện thần biến, rồi lặng lẽ viên tịch. Asvaghosa và đồ chúng xây tháp trùm lên chơn thân, thờ ngài.




tải về 1.04 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương