Hạng thượng phẩm là những người bỏ nhà, lìa ái dục mà
làm Sa Môn, phát tâm Bồ đề, chuyên một mặt niệm Vô
Lượng Thọ Phật, tu các công đức, nguyện sanh về nước ấy.
Lúc chúng sanh nầy lâm chung, đức Vô Lượng Thọ Phật
cùng hàng Thánh chúng hiện ra trước người ấy, liền theo
đức Phật sanh về nước An Lạc, tự nhiên hóa sanh từ trong
47
hoa sen thất bảo, ở bực bất thối chuyển, trí huệ dũng mãnh,
thần thông tự tại.
Vì thế nên, nầy A Nan! Có ai muốn hiện đời được thấy đức
Vô Lượng Thọ Phật thì phải phát tâm Vô thượng Bồ đề tu
những công đức nguyện sanh về nước An Lạc.
Nầy A Nan! Hạng trung phẩm là những người và chư
Thiên ở các thế giới mười phương, có ai chí tâm nguyện
sanh về nước ấy, nhưng phải phát tâm Vô thượng Bồ đề
chuyên một mặt niệm Vô Lượng Thọ Phật, làm lành hoặc ít
hoặc nhiều, giữ gìn giới Bát quan trai, xây dựng tháp tượng
trai tăng, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, dùng đây
để hồi hướng nguyện sanh về nước An Lạc. Lúc người nầy
lâm chung, đức Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân ra đủ
tướng tốt và quang minh như chơn Phật cùng với Thánh
chúng đến trước người ấy, liền theo đức Hóa Phật sanh về
nước An Lạc ở bực bất thối chuyển. Công đức trí huệ kế
bực thượng phẩm.
Nầy A Nan! Hạng hạ phẩm là có những người và chư
Thiên ở các thế giới mười phương chí tâm muốn sanh về
nước An Lạc, giả sử chẳng làm được các công đức, họ phải
phát tâm Vô thượng Bồ đề, một mặt chuyên tâm niệm Vô
Lượng Thọ Phật cho đến mười niệm nguyện sanh nước An
Lạc, hoặc nghe pháp Ðại thừa vui mừng tin ưa chẳng sanh
nghi hoặc niệm Vô Lượng Thọ Phật cho đến một niệm,
dùng tâm chí thành nguyện sanh nước An Lạc. Người ấy
lúc lâm chung chiêm bao thấy đức Vô Lượng Thọ Phật
cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kế bực trung phẩm.
48
Nầy A Nan! Ðức Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực.
Vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai ở các
thế giới mười phương, không đức Phật nào chẳng khen
ngợi Vô Lượng Thọ Phật.
Hằng hà sa Phật quốc ở phương Ðông kia có vô lượng vô
biên chúng Bồ Tát thảy đều đến chỗ đức Vô Lượng Thọ
Phật để cung kính cúng dường đức Phật ấy và chúng Bồ
Tát, Thanh Văn, rồi nghe thọ kinh pháp tuyên bá giáo hóa.
Chín phương khác cũng như vậy”.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ tụng rằng:
“Phương Ðông các Phật quốc
Số nhiều như hằng sa
Chúng Bồ Tát nước ấy
Ðến lạy Vô Lượng Phật
Ba phương và bốn hướng
Thượng hạ cũng như vậy
Chúng Bồ Tát nước ấy
Ðến lạy Vô Lượng Phật
Tất cả chúng Bồ Tát
Ðều mang hoa trời đẹp
Hương trời, y vô giá
Cúng dường Vô Lượng Phật
Ðều cùng tấu nhạc trời
Phát ra tiếng hòa nhã
Ca ngợi đấng Tối Thắng
Cúng dường Vô Lượng Phật.
Thấu suốt thần thông huệ
49
Chứng nhập thâm pháp môn
Ðầy đủ tạng công đức
Diệu trí chẳng ai bằng
Huệ nhựt soi thế gian
Tiêu trừ mây sanh tử
Cung kính nhiễu ba vòng
Cúi lạy đấng vô thượng
Thấy nước ấy nghiêm tịnh
Vi diệu khó nghĩ bàn
Nên phát tâm vô lượng
Nguyện nước tôi cũng vậy
Liền đó vô lượng Phật
Hoan hỷ miệng mỉm cười
Miệng phóng vô số quang
Chiếu khắp mười phương cõi
Quay về vòng quanh thân
Ba vòng vào đảnh Phật
Tất cả chúng trời, người
Ðều vui mừng hớn hở.
Quán Thế Âm Bồ Tát
Chỉnh y cúi đầu hỏi
Cớ sao đức Phật cười
Ngưỡng mong Phật nói ý?
Tiếng Phật như sấm động
Bát âm vang tiếng diệu
Sẽ thọ ký Bồ Tát
Ông lắng nghe ta nói
50
Bồ Tát mười phương đến
Ta đều biết họ muốn
Nguyện cầu nước nghiêm tịnh
Thọ ký sẽ thành Phật
Giác ngộ tất cả pháp
Ðường như mộng, ảo, vang
Ðầy đủ những diệu nguyện
Tất thành nước như vậy
Biết pháp như điện, ảnh
Trọn vẹn đạo Bồ Tát
Ðủ các cội công đức
Thọ ký sẽ thành Phật
Thông đạt các pháp tánh
Tất cả không, vô ngã
Chuyên cầu nước Phật tịnh
Tất thành nước như vậy
Chư Phật bảo Bồ Tát
Phải đến Phật Vô Lượng
Nghe pháp thích vâng làm
Mau được chỗ thanh tịnh
Ðến nước nghiêm tịnh ấy
Thì mau được thần thông
Ở chỗ Phật Vô Lượng
Thọ ký thành chánh giác
Phật ấy có bổn nguyện
Nghe danh muốn vãng sanh
Ðều được sanh nước ấy
51
Ở bực bất thối chuyển
Bồ Tát phát chí nguyện
Muốn nước tôi không khác
Nhớ độ khắp tất cả
Danh vang khắp mười phương
Phụng sự ức Như Lai.
Biến hóa đến các nước
Cung kính cúng dường Phật
Trở về nước An Dưỡng.
Người nào không tâm lành
Chẳng được nghe kinh nầy
Người có giới thanh tịnh
Mới được nghe chánh pháp
Ðã từng thấy chư Phật
Thì tin được việc nầy
Cung kính nghe phụng hành
Hớn hở rất vui mừng.
Kiêu mạn, ngu, giải đãi
Khí tin được pháp nầy
Ðời trước thấy chư Phật
Thích nghe giáo pháp này.
Thanh Văn hoặc Bồ Tát
Chẳng biết được tâm Phật
Ví như người sanh manh
Muốn dẫn đường người khác
Biển trí huệ của Phật
Sâu rộng không bờ đáy
52
Nhị thừa chẳng lường được
Chỉ riêng Phật sáng tỏ
Giả sử tất cả người
Ðều đắc đạo cả thảy
Huệ nhãn biết bổn không
Ức kiếp suy Phật trí
Tận lực cố giảng nói
Vẫn chẳng biết được rõ
Trí Phật không ngằn mé
Tột thanh tịnh như vậy
Thọ mạng rất khó được
Ðời Phật cũng khó gặp
Có tín huệ cũng khó
Nếu nghe siêng năng cầu
Nghe pháp được chẳng quên
Cung kính rất vui mừng
Là bạn lành của ta
Vì vậy phải phát tâm
Giàu lửa khắp thế giới
Quyết vượt qua nghe pháp
Ðể được thành Phật đạo
Rộng độ dòng sanh tử.
Ðức Phật bảo Ngài A Nan:“Bồ Tát ở nước An Lạc rốt ráo
đều sẽ đến bậc nhất sanh bổ xứ. Trừ những vị cố bổn
nguyện vì chúng sanh mà lập nguyện công đức lớn để tự
trang nghiêm, muốn độ thoát khắp cả chúng sanh.
53
Nầy A Nan! Hàng Thanh Văn ở nước An Lạc thân
chiếu ánh sáng một tầm, thân Bồ Tát chiếu ánh sáng trăm
do tuần.
Có hai Bồ Tát tối tôn đệ nhứt oai thần quang minh
chiếu khắp cõi Ðại Thiên.
– Bạch đức Thế Tôn Hai Bồ Tát ấy danh hiệu là gì?
– Nầy A Nan! Bồ Tát thứ nhứt hiệu là Quán Thế Âm, Bồ
Tát thứ hai hiệu là Ðại Thế Chí.
Hai Bồ Tát ấy ở cõi nước Ta Bà nầy tu Bồ Tát hạnh, lúc
mạng chung chuyển sanh về nước An Lạc.
Nầy A Nan! Có chúng sanh nào sanh về nước An Lạc,
thân của họ đều đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, thành mãn
trí huệ thâm nhập diệu pháp, thần thông vô ngại, các căn
sáng suốt mau lẹ. Người căn trí chậm lụt nhứt thì thành tựu
hai pháp nhẫn. Người căn trí lanh lợi thì được vô lượng vô
sanh pháp nhẫn.
Lại chư Bồ Tát ở nước ấy mãi đến thành Phật chẳng
sanh vào ác đạo, thần thông tự tại thường biết túc mạng.
Trừ người sanh về đời ác ngũ trược ở phương khác như
quốc độ Ta Bà của ta đây.
Nầy A Nan! Bồ Tát nước An Lạc thừa oai thần của đức
Vô Lượng Thọ Phật, khoảng thời gian một bữa ăn, đi đến
vô lượng thế giới mười phương cung kính cúng dường chư
Phật Thế Tôn, theo ý nghĩ của họ, những món cúng dường
như hoa, hương, kỹ nhạc, y phục, phan lọng, vô số vô
lượng thứ tự nhiên hóa hiện ra, tất cả đều trân quý vi diệu
thế gian chẳng có được. Chư Bồ Tát ấy liền đem rải lên
54
cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát Thanh Văn. Những
thứ ấy ở trên không hóa thành lọng hoa xinh đẹp sáng chói
tỏa hương thơm khắp nơi. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm
dặn, rồi lần lần lớn gấp bội cho đến trùm khắp cõi Ðại
Thiên, sau đó tuần tự ẩn mất.
Chư Bồ Tát đều vui mừng thăng lên hư không đồng tấu
thiên nhạc, dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của
chư Phật, lắng nghe kinh pháp vui mừng vô lượng. Cúng
dường chư Phật xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn
quốc An Lạc vẫn còn trước giờ ăn.
Nầy A Nan! Lúc đức Vô Lượng Thọ Phật ban pháp
ngữ cho hàng Trời, Người, Thanh Văn, Bồ Tát thì đều vân
tập tại thất bửu giảng đường. Thính chúng được nghe diệu
pháp không ai là chẳng khai ngộ vui mừng. Liền đó bốn
phương tự nhiên gió nhẹ thổi động những cây thất bửu phát
ra ngũ âm. Vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ tán để cúng
dường bất tuyệt. Tất cả hàng chư Thiên đều mang trăm
ngàn thứ hoa hương cõi trời và muôn thứ kỹ nhạc trời cúng
dường đức Phật ấy cùng Bồ Tát, Thanh Văn. Rải hoa
hương khắp nơi, hòa tấu âm nhạc, chư Thiên hàng hàng lớp
lớp trước sau qua lại, vẹt tránh lẫn nhau. Trong lúc ấy, tất
cả đều sung sướng khoái lạc chẳng thể nói được.
Nầy A Nan! Chư Bồ Tát sanh về nước An Lạc có giảng
thuyết được thì thường tuyên chánh pháp thuận theo trí huệ
chẳng hề sai thất.
Trong nước An Lạc, chư Bồ Tát đối với vạn vật không
có tâm ngã sở, không có tâm nhiễm trước, qua lại đi đứng
55
tâm không hệ lụy tùy ý tự tại, không khen lấy hay chê bỏ,
không quan niệm bỉ ngã, không ý nghĩ tranh giành. Ðối với
mọi người có tâm đại từ đại bi, chỉ nghĩ đến việc làm lợi
ích, lòng luôn nhu thuận điều phục không hề giận hờn,
không lười biếng chán nản, lìa cái triền được thanh tịnh, có
những tâm bình đẳng, tâm thù thắng, thâm tâm, định tâm,
tâm yêu pháp, thích pháp và mừng được pháp, diệt trừ
phiền não, rời tâm ác đạo, trọn vẹn công hạnh của Bồ Tát,
thành tựu đầy đủ vô lượng cô đức, được thâm thiền định,
thần thông và trí huệ, chỉ ở bảy phần Bồ đề, tu tâm Phật
thừa, nhục nhãn trong sáng không gì chẳng thấy biết rõ,
thiên nhãn thông đạt vô hạn vô lượng, huệ nhãn thấy chơn
đế đến được bờ kia, pháp nhãn quan sát rốt ráo các đạo,
Phật nhãn đầy đủ chiếu rõ pháp tánh, dùng trí vô ngại giảng
thuyết cho người, xem khắp ba cõi trống rỗng không chỗ
có, chí cầu Phật thừa đủ các biện tài, trừ diệt khổ họa phiền
não của chúng sanh, từ Như Lai sanh ra hiểu pháp như như,
biết rành tập diệt âm thanh phương tiện, chẳng thích thế tục
ngữ ngôn, ưa mến đàm luận chánh pháp, tu tập những gốc
lành chí tôn sùng Phật đạo, biết tất cả pháp thảy đều tịch
diệt, hai thứ còn thừa là sanh thân và phiền não đều hết,
nghe nói pháp thậm thâm lòng chẳng nghi chẳng sợ,
thường hay tu hành đức tánh đại bi sâu xa vi diệu chở che
cho tất cả, rốt ráo nhứt thừa đến bờ kia, quyết đoán lưới
nghi trí tuệ từ tâm phát ra, gồm bao Phật pháp không để
sót, trí huệ rộng sâu như đại hải, tam muội vững chắc như
sơn vương, trí huệ chiếu sáng trong sạch hơn hẳn mặt nhựt,
56
mặt nguyệt, pháp thanh bạch đều đã đầy đủ, soi các công
đức đồng một trong sạch như núi Tuyết, tâm không phân
biệt như mặt đất không nghĩ sạch dơ tốt xấu sai khác, rửa
sạch những cấu nhiễm trần lao như tịnh thủy, cháy hết tất
cả củi phiền não như lửa hồng, đi qua các thế giới không
chướng ngại như gió lớn, với tất cả không dính mắc như hư
không, nơi tất cả thế gian không bị nhiễm ô như hoa sen,
chuyên chở chúng sanh ra khỏi sanh tử như cỗ xe lớn, chấn
đại pháp lôi cảnh giác kẻ chưa thức tỉnh như mây dày mưa
pháp cam lộ nhuần ướt chúng sanh như mưa lớn, loài ma
ngoại đạo chẳng động đến được như núi Kim Cương, nói
các pháp lành và là bực tối thượng thủ như Phạm Thiên
Vương, che mát tất cả những cây ni câu luật, rất là ít có,
khó gặp như hoa ưu đàm bát, oai phục ngoại đạo như kim
sí điểu, không có chứa để như loài du cầm, không ai thắng
được như Ngưu Vương, khéo điều phục thuần thục như
Tượng Vương, được vô sở úy như Sư Tử Vương, đại từ
bình đẳng như hư không rỗng rang, dứt lòng ganh ghét vì
chẳng đố kỵ người hơn mình, chuyên ưa cầu pháp lòng
chẳng chán đủ, thường muốn giảng dạy chí nguyện chẳng
mỏi mệt, đánh pháp cổ, dựng pháp tràng, chiếu huệ nhựt,
trừ si ám, tu lục hòa kính, thường hành pháp thí, chí dũng
mãnh tinh tiến, lòng không khiếp nhược thối chuyển, là đèn
sáng cho đời, là ruộng phước thù thắng, thường làm thầy
dìu dắt bình đẳng không thương ghét, chỉ thích chánh đạo
không ưa muốn gì khác, nhổ gai ái dục để an ổn quần sanh,
công đức trí huệ đều thù thắng không ai là chẳng tôn kính,
57
diệt ba chướng du hý thần thông, đầy đủ tất cả những lực
như: nhơn lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện
lực, thường lực, thiện lực, định lực, huệ lực, đa văn lực, thí
lực, giới lực, nhẫn lực, tinh tiến lực, thiền định lực, trí huệ
lực, chánh niệm lực, chỉ quán lực, thần thông lực, và năng
lực điều phục các chúng sanh đúng pháp, sắc thân tướng
hảo công đức biện tài đều đầy đủ trang nghiêm không ai
bằng, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường
được chư Phật đồng khen ngợi, đã rốt ráo các môn Ba la
mật của Bồ Tát, tu các môn không vô tướng vô nguyện tam
muội và các môn tam muội bất sanh bất diệt, rời xa địa vị
Thanh Văn và Duyên Giác.
Nầy A Nan! Chư Bồ Tát nước An Lạc thành tựu vô
lượng công đức như vậy. Ta chỉ nói lược cho ông đó thôi.
Nếu nói rộng thời nói suốt trăm nghìn muôn kiếp cũng
chẳng hết được”.
Ðức Phật gọi Ngài Di Lặc Bồ Tát mà bảo rằng: “Nầy A
Dật Ða! Công đức và trí huệ của hàng Thanh Văn và Bồ
Tát nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật chẳng thể kể
nói được.
Lại quốc độ ấy vi diệu an lạc thanh tịnh dường ấy, sao
chư Thiên và mọi người chẳng gắng sức làm lành, phải đều
siêng năng tinh tiến nỗ lực tự cầu tất được siêu tuyệt vãng
sanh nước An Lạc, dứt ngang năm ác đạo, ác đạo tự nhiên
đóng bít, con đường đạo tiến lên không cùng tột dễ đến mà
không có người, nước ấy chẳng trái bỏ một ai lại có sức
kéo dắt tự nhiên.
58
Sao mọi người chẳng vứt bỏ việc đời để chuyên cần tu
hành cầu nên đạo đức để được tột sự trường sanh hưởng
vui không cùng cực.
Nhưng người đời phần đông phước mỏng, cùng tranh
nhau những sự chẳng cần kíp, ở tại trong chỗ kịch ác tột
khổ mà nhọc nhằn kinh doanh chật vật để tự cung cấp.
Không luận là người tôn kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ già
nam nữ đều lo nghĩ về tiền tài, vất vả sầu khổ mãi nghĩ mãi
lo không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có
trâu ngựa lục súc nô tỳ tiền của y thực trăm ngàn thứ lại lo
trăm ngàn thứ. Toan tính cầu lợi lo nghĩ buồn sợ bỗng chốc
bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công, tài sản tiêu
tan thân mang tai họa, lại sầu khổ phẫn uất. Nếu tài sản
không bị tiêu tan, thân không bị tai họa, nhưng cuối cùng
vô thường bỗng đến, thân chết mạng chung, tay không mà
đi không mang món gì theo được”.
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát và hàng chư Thiên
nhơn chúng rằng: “Nay ta nói với các người, thế nhơn do
những sự việc ấy nên chẳng đắc đạo.
Phải suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những điều ác, chọn
những điều lành rồi siêng năng thực hành.
Ái dục vinh hoa là những thứ chẳng thể bảo tồn mãi
mãi, rồi đều sẽ ly tan không có gì đáng vui đáng thích.
May mắn gặp đức Phật tại thế phải kíp chuyên cần tu tập,
người nào có chí nguyện sanh về nước An Lạc thì được trí
huệ sáng suốt, công đức thù thắng. Chẳng nên buông lung
theo lòng dục vọng mà phụ rẫy lời dạy trong kinh pháp giới
59
luật để rồi phải rơi ở sau người. Nếu có ai còn mắc hay
chẳng hiểu kinh pháp nên đem hỏi Phật. Ta sẽ giải thuyết
cho”.
Bấy giờ Ngài Di Lặc Bồ Tát tiến ra quỳ dài bạch đức Phật:
“Ðức Thế Tôn oai thần tôn trọng giảng nói rất hay. Tôi
lắng nghe kinh ngữ mà đức Phật vừa nói, suy gẫm kỹ lại thì
người đời thiệt đúng như lời đức Phật đã phán dạy.
Nay đức Phật thương xót hiển thị đại đạo, tất cả đều
sáng mắt ra được lợi ích lành rất lớn, không ai là chẳng vui
mừng. Chư Thiên, nhơn dân cho đến các loài nhuyến động
đều nhờ từ ân của đức Phật mà thoát khỏi ưu khổ.
Ðức Phật dạy bảo rất sâu rất lành. Phật trí thấy suốt
mười phương ba đời, chẳng sự gì là chẳng rành rẽ.
Ngày nay chúng tôi được giải thoát đây, đều là nhờ đời
trước đức Phật đã từng khổ nhọc cầu đạo vậy.
Ân đức của Phật trùm khắp, phước lớn vòi vọi quang
minh chiếu suốt, đạt thấu pháp không, khai nhập tịch diệt,
cảm động mười phương vô cùng vô cực.
Ðức Phật là đấng Pháp Vương, là thầy của tất cả trời
người, tùy theo sở nguyện của họ đều làm cho họ đắc đạo.
Nay được gặp đức Phật lại được nghe về đức Vô Lượng
Thọ Phật không ai là chẳng vui mừng tâm được khai ngộ”.
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát: “Ông nói rất phải.
Nếu ai mến kính đức Phật thì thiệt là sự đại thiện.
Trong thiên hạ lâu lâu mới có Phật ra đời.
Nay ta ở đời nầy làm Phật diễn nói kinh pháp tuyên bố
đạo dứt các lưới nghi, nhổ gốc ái dục, ngăn nguồn xấu ác,
60
đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị ngũ đạo độ
kẻ chưa được độ, quyết chánh con đường sanh tử và Niết
bàn.
Nầy A Dật Ða! Từ vô số kiếp đến nay, ông tu Bồ Tát
hạnh để độ chúng sanh. Những người nhờ ông mà được đắc
đạo cho đến chứng Niết bàn chẳng thể đếm nói.
Chư Thiên và nhân dân tứ chúng từ nhiều kiếp đến nay
xoay lăn trong ngũ đạo lo sợ khốn khổ chẳng nói hết được.
Mãi đến đời nay vẫn chưa dứt sanh tử. Gặp được đức Phật
nghe thọ kinh pháp và được nghe về đức Vô Lượng Thọ
Phật, thiệt là được lợi lành rất lớn. Ta mừng cho đó.
Các người ngày nay cũng nên tự nhàm chán sanh lão
bệnh tử thống khổ, thân ngũ ấm hôi nhơ vô thường không
có gì đáng vui thích. Phải tự quyết đoán đoan thân chánh
hạnh làm nhiều việc lành, trừ sạch tâm nhơ bẩn, ngôn hạnh
trung tín trong ngoài tương ưng, tự độ mình mà cũng cứu
giúp người khác, thành tâm cầu nguyện chứa nhóm đức
lành. Dầu phải cần khổ tu hành nhưng chỉ là một đời ngắn
ngủi, về sau được sanh về nước An Lạc của đức Vô Lượng
Thọ Phật hưởng sự khoái lạc vô cực, mãi mãi hiệp với đạo,
khỏi hẳn sanh tử, không còn họa hoạn tham sân ngu si,
muốn thọ một kiếp hay trăm ngàn muôn ức kiếp đều tùy ý
tự tại, tất cả đều vô vi tự nhiên kế đạo tịch diệt.
Các người phải đều tinh tiến phát nguyện tu hành,
không được nghi ngờ chần chờ tự gây lấy tội vạ mà phải
sanh về cung điện bảy báu ở biên địa của nước ấy, chịu lấy
tai ách trong năm trăm năm”.
61
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch đức Phật: “Chúng tôi nhận
lãnh lời răn dạy của đức Phật, chuyên cần tu học y giáo
phụng hành, chẳng dám có lòng nghi ngờ”.
Ðức Phật lại bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng: “Các người
có thể ở đời nầy đoan tâm chánh ý chẳng làm những điều
ác đó là chí đức, mười phương thế giới không đâu sánh
bằng. Tại sao vậy?
Ở quốc độ của chư Phật, hàng chư thiên và nhơn dân tự
nhiên làm điều lành, chẳng phạm nhiều điều ác, họ rất dễ
khai hóa. Hiện nay ta làm Phật ở thế gian nầy, ở trong ngũ
ác ngũ thống ngũ thiêu, chỗ quá khổ lụy, giáo hóa chúng
sanh khiến họ trừ ngũ ác, bỏ ngũ thống, rời ngũ thiêu, điều
phục ý họ khiến họ trì ngũ thiện, cho họ được phước đức
thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo Niết bàn trường thọ.
Nầy A Dật Ða! Những gì là ngũ ác, ngũ thống và ngũ
thiêu? Thế nào là tiêu hóa ngũ ác, khiến trì ngũ thiện được
phước đức thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo Niết bàn
trường thọ?
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |