Ðiều ác thứ năm: Người đời ỷ lại lười biếng chẳng
chịu làm điều lành sửa mình tu nghiệp. Gia đình quyến
thuộc đói rét khốn khổ. Cha mẹ có dạy răn thì giận dỗi
chống trái, bất hiếu bất mục, phụ ân vô nghĩa, không có
lòng báo đáp. Nghèo cùng khốn thiếu, sang đoạt phóng
đãng, lấy ngang của người để tự cung cấp. Thích ngon ưa
rượu, ăn uống vô độ, gây gổ xung đột chẳng biết nhơn tình.
Thấy người hay tốt thì ganh ghét. Vô nghĩa vô lễ không hề
kiêng kỵ. Phóng túng chơi bời không ai khuyên can được.
Với lục thân quyến thuộc, thiếu đủ không hề đoái hoài.
Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng biết nghĩa thầy bạn. Tâm
thừing nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác,
66
không có được chút lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật
hiền thánh. Chẳng tin hành đạo sẽ được giải thoát. Chẳng
tin sau khi chết thần thức đầu thai trở lại. Chẳng tin làm
lành được lành, làm dữ được dữ. Muốn giết người chơn tu,
phá rối chúng Tăng. Muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc.
Tông tộc đều chán ghét muốn nó chết đi. Người như vậy,
tâm ý họ cháy phừng ngu si mê muội mà họ tự cho là sáng
suốt. Chẳng biết sanh từ đâu đến, chết sẽ về đâu. Bất nhơn
bất thuận ác nghịch trời đất, mà lại muốn cầu may được
trường thọ. Có ai thương dạy bảo điều lành lẽ phải, khai thị
con đường sanh tử thiện ác, họ vẫn chẳng tin, khổ tâm cạn
lời cũng thành vô ích. Lòng họ bít lấp, ý họ chẳng tỏ ngộ.
Lúc sắp chết mới biết lo sợ ăn năn thì đâu còn kịp nữa.
Trong trời đất năm loài phân minh, rộng rãi mịt mờ mênh
mênh mông mông. Báo ứng lành dữ, họa phước kéo dắt tự
mình lãnh chịu, không ai thay thế được. Người lành làm
lành thì từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Người dữ làm dữ
thì từ khổ vào khổ, từ tối vào tối. Ai biết được đó? Chỉ một
mình đức Phật biết rõ dạy bảo khai thị. Người tin làm theo
rất ít. Vì thế nên sanh tử chẳng thôi, ác đạo chẳng tuyệt.
Người đời tạo ác như vậy nên có tự nhiên tam đồ khổ sở vô
lượng. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp không có
thời kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn chẳng nói
được. Ðây là năm đại ác, năm thống, năm thiêu, như lửa
lớn đốt cháy thân người.
Nếu có ai trong ấy nhứt tâm chế ý đoan thân chánh niệm,
ngôn hạnh tương ưng, việc làm chí thành, chuyên làm điều
67
lành chẳng phạm điều ác thì được độ thoát, có nhiều phước
đức được sanh lên cõi trời hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là
năm đại thiện vậy.
Nầy A Dật Ða! Ðó là năm điều ác trong đời khổ não
như vậy. Năm thống, năm thiêu xoay vần sanh lẫn nhau.
Chẳng tu đức lành mà chỉ làm những điều ác thì đều tự
nhiên đọa vào ác đạo. Hoặc có kẻ hiện đời nay, trước hết bị
bệnh hoạn cầu chết chẳng được, cầu sống chẳng được, cho
mọi người thấy sự chiêu cảm của tội ác. Khi thân chết, thần
thức theo ác nghiệp mà đi vào ba ác đạo chịu vô lượng
thống khổ.
Tội ác từ mảy nhỏ lần thành to lớn, đều do tham làm tài
sắc chẳng chịu ban bố. Chạy theo dục vọng si cuồng, phiền
não buộc trói không tháo mở được.Tranh lợi về mình chẳng
biết tự xét. Phú quí vinh hoa đương thời đắc ý, chẳng hay
nhẫn nhục, chẳng biết làm lành. Không bao lâu oai thế tiêu
diệt, thân bị khổ nhọc càng ngày càng nặng, nhơn xấu quả
khổ, nhơn quả tự nhiên không hề sai sót, xưa nay đều như
vậy thiệt rất đáng thương.
Này A Dật Đa! Người đời phần đông đều như vậy. Nay
ông và chư Thiên cùng nhơn dân với người đời sau được
kinh giáo của đức Phật phải suy ngẫm chín chắn, có thể y
theo trong ấy mà đoan thân chánh hạnh, người trên làm
lành rồi đem cảm hóa người dưới, luân chuyển dạy bảo
nhau đều giữ gìn thật hành, tôn bực Thánh, kính người
lành, nhơn từ bác ái, chẳng dám trái lời Phật dạy. Phải cầu
xuất thế nhổ đứt gốc sanh tử tội ác, rời hẳn con đường tam
68
đồ vô lượng lo sợ khổ đau. Các người ở cõi nầy vun trồng
cội công đức lớn rộng, ban ơn bố thí, chớ phạm cấm giới,
nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm và trí huệ. Giáo hóa lẫn
nhau, tu đức lập thiện, chánh tâm chánh ý, trai giới thanh
tịnh một ngày một đêm còn hơn ở nước An Lạc làm lành cả
trăm năm.
Tại sao vậy?
Quốc độ An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật vô vi tự
nhiên đều chứa những điều lành, không có tơ hào việc ác.
Ở cõi nầy làm lành mười ngày mười đêm hơn ở cõi khác
làm lành ngàn năm.
Tại sao vậy?
Những cõi khác, người làm lành nhiều, người làm ác ít,
phước đức tự nhiên không có chỗ để tạo ác. Chỉ ở thế gian
nầy không có phước đức tự nhiên, nhiều người làm ác, cần
khổ theo dục vọng, khi dối lẫn nhau, lao tâm khổ thân,
uống đắng ăn độc, sự ác triền miên không bao giờ ngừng
nghỉ.
Ta vì thương mọi người mà hết lời khuyên dạy hành
đạo làm lành, tùy nghi dìu dắt truyền kinh pháp của Phật,
tất được thọ dụng, theo ý nguyện cầu đều làm cho đắc đạo
cả. Chỗ nào đức Phật đi đến, hoặc quốc ấp, hoặc xóm làng,
không đâu là chẳng nhờ giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận, nhựt
nguyệt trong sáng, gió mưa phải thời, tai dịch chẳng khởi,
nước thạnh dân an, binh đao vô dụng, sùng đức trọng nhơn
chuyên làm lễ nghĩa.
69
Ta thương mọi người còn hơn cha mẹ thương con. Nay
ta ở đời nầy làm Phật cảm hóa năm ác, tiêu trừ năm thống,
tuyệt diệt năm thiêu. Ðem điều lành công phá tội ác, dứt
khổ sanh tử, khiến được năm đức đến chỗ an ổn vô vi.
Sau khi ta nhập diệt rời bỏ thế gian nầy, kinh đạo diệt lần,
nhơn dân siểm ngụy trở lại làm ác, năm thống, năm thiêu
hoàn lại như trước, về sau càng nặng chẳng nói hết được.
Ta chỉ nói lược đó thôi.”
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát:“Các người phải
khéo suy gẫm dạy bảo lẫn nhau đúng như kinh pháp của
Ðức Phật, không được phạm ác”.
Ngài Di Lặc Bồ Tát chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Lời đức Phật dạy rất hay. Người đời quả thật có như
vậy. Ðức Như Lai từ mẫn làm cho họ được độ thoát. Chúng
tôi xin lãnh lời Phật cặn kẽ dạy bảo, chẳng dám sai thất”.
Ðức Phật bảo Ngài A Nan:“Nầy A Nan! Ông đứng dậy
chỉnh y phục chắp tay cung kính đảnh lễ đức Vô Lượng
Thọ Phật. Chư Phật Như Lai ở nhũng quốc độ mười
phương thường ca ngợi đức Vô Lượng Thọ Phật chẳng
chướng ngại chẳng nhiễm trước”.
Ngài A Nan đứng dậy chỉnh y phục, chánh thân hướng
về phương Tây chắp tay cung kính năm vóc gieo xuống đất
đảnh lễ đức Vô Lượng Thọ Phật mà bạch rằng: “Bạch đức
Thế Tôn! Chúng tôi mong được thấy quốc độ An Lạc, đức
Phật và chư Bồ Tát cùng Thanh Văn đại chúng”.
Liền đó đức Vô Lượng Thọ Phật phóng đại quang
minh chiếu khắp tất cả thế giới của chư Phật mười phương.
70
Những núi Kim Cang, núi Thiết Vi, núi Tu Di, các núi lớn
nhỏ và tất cả vạn vật đều đồng một màu sắc. Như thời kỳ
đại thủy tai, nước ngập tràn đầy tất cả, vạn vật đều chìm
ngập chẳng còn, chỉ thấy mặt nước mênh mông. Quang
minh của đức Vô Lượng Thọ Phật chiếu khắp cũng như
vậy. Quang minh của tất cả Bồ Tát, Thanh Văn đều bị che
ẩn, chỉ thấy Phật quang sáng rỡ. Ngài A Nan thấy đức Vô
Lượng Thọ Phật oai đức nguy nguy, tướng hảo đầy đủ
quang minh rực rỡ như núi Tu Di cao vượt trên tất cả thế
giới. Tất cả hàng tứ chúng nơi đây cũng đồng thấy như vậy.
Ðại chúng ở nước An Lạc cũng nhìn thấy bên cõi Ta Bà
nầy.
Ðức Phật bảo Ngài A Nan và Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng:
“Các ông có thấy ở nước An Lạc ấy, từ mặt đất báu lên đến
không gian, tất cả vạn vật đều vi diệu thanh tịnh tự nhiên
chăng?”.
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều thấy.
– Các ông có nghe âm thanh to lớn của đức vô Lượng Thọ
Phật tuyên bố khắp tất cả thế giới giáo hóa chúng sanh
chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi có nghe.
– Các ông có thấy người nước An Lạc ngồi cung điện thất
bửu rộng lớn trăm ngàn do tuần đến khắp những quốc độ
mười phương cúng dường chư Phật không bị chướng ngại
chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều thấy.
– Các ông có thấy trong nước An Lạc, những cây thất bửu,
71
những ao thất bửu, những hoa trời đẹp thơm luôn luôn mưa
rải khắp mặt đất thất bửu để làm trang nghiêm chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều thấy.
– Các ông có thấy trong nước an Lạc, các loài chim đẹp lạ
bay liệng trên không kêu hót hòa nhã không khác âm thanh
của Phật, tiếng chim vang khắp thế giới. Các lời chim ấy
đều do đức Phật Vô Lượng Thọ biến hóa ra, chẳng phải là
thiệt súc sanh chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều nghe thấy.
– Các ông có thấy chúng sanh ở nước An Lạc ngày đêm
sáu thời tự nhiên niệm Phật tương tục chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều nghe thấy.
– Các ông thấy ở nước An Lạc, chư Thiên và nhơn dân thọ
dụng những thứ cần dùng có khác nhau chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi thấy trời và người ở nước
An Lạc thọ dụng đồng nhau không có một chút sai khác.
– Các ông có thấy tại nước An Lạc, có người ở trong thai
chăng?
– Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi thấy tại nước An Lạc,
người ở trong thai cung điện bảy báu, như Trời Ðao Lợi ở
trong cung điện thất bửu hoặc rộng lớn một trăm do tuần,
hoặc năm trăm do tuần sung sướng, vui vẻ. Chúng tôi cũng
thấy tại nước An Lạc, có người từ hoa sen thất bửu tự nhiên
hóa sanh”.
Lúc ấy Di Lạc Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Duyên cớ gì mà người nước An Lạc có thai sanh và
hóa sanh?”.
72
Ðức Phật dạy: “Nầy A Dật Ða! Nếu có chúng sanh
chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, đại
thừa quảng trí, vô đẳng luân tối thượng thắng trí. Với
những trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng lại tin nhơn quả tội
phước tu tập hạnh lành cầu nguyện sanh về nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật. Chúng sanh ấy sanh về nước
An Lạc ở trong cung điện thất bửu năm trăm năm, chẳng
thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát và
chúng Thanh Văn. Vì thế nên ở nước ấy gọi là thai sanh.
Nếu chúng sanh biết và tin Phật trí, cho đến biết và tin vô
đẳng luân tối thượng thắng trí, tu các công đức kính tin hồi
hướng nguyện cầu sanh về nước An Lạc của đức Vô Lượng
Thọ Phật. Các chúng sanh ấy sanh về nước An Lạc ở trong
hoa sen thất bửu tự nhiên hóa sanh ngồi kiết già, khoảnh
khắc những thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức đều
thành tựu đầy đủ như chư Bồ Tát.
Lại nầy A Dật Ða! Chư đại Bồ Tát ở cõi nước phương
khác phát tâm muốn thấy đức Vô Lượng Thọ Phật để cung
kính cúng dường và muốn thấy chúng Bồ Tát Thanh Văn
nước ấy. Chư đại Bồ Tát ấy lúc mạng chung được sanh về
nước An Lạc ở trong hoa sen thất bửu tự nhiên hóa sanh.
Nầy A Dật Ða! Tại nước An Lạc, những người hóa
sanh vì có trí huệ thù thắng. Người thai sanh không có trí
huệ, trong năm trăm năm thường chẳng thấy Phật, chẳng
nghe kinh pháp, chẳng thấy Thánh chúng Bồ Tát và Thanh
Văn. Không do đâu để được cúng dường đức Phật, chẳng
biết phép tắc của Bồ Tát, chẳng tu tập được các công đức.
73
Phải biết những người nầy lúc ở đời trước vì không có trí
huệ, chẳng diệt nghi hoặc mà ra.
Nầy A Dật Ða! Thí như vua Chuyển Luân Thánh
Vương có nhà ngục bảy báu trang nghiêm, trần thiết
giường màn, treo phan kết tụ. Nếu có hàng Tiểu Vương Tử
mắc tội, bèn đem giam vào trong nhà ngục ấy trói bằng dây
xích vàng, cấp dưỡng đầy đủ đồ uống ăn mền nệm hoa
hương kỹ nhạc, đồng như Chuyển Luân Thánh Vương
không để thiếu thốn. Ý ông nghĩ sao, A Dật Ða! Các Tiểu
Vương Tử ấy có vui thích chăng?”
– Bạch đức Thế Tôn! Không vui thích được. Họ chỉ
mong có phương cách gì để ra khỏi ngục.
– Nầy A Dật Ða! Cũng vậy. Các chúng sanh ấy vì nghi
hoặc Phật trí mà sanh trong cung điện thất bửu không có
hình phạt, cũng không có một niệm ác sự. Chỉ trong vòng
năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo. Chẳng được cúng
dường, chẳng được tu các đức lành mà lấy đó làm khổ, dầu
có những sự vui, nhưng vẫn chẳng thích chỗ ấy. Nếu các
chúng sanh ấy biết tội đời trước rất ăn năn tự trách cầu rời
chỗ ấy liền được toại ý qua đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật
cung kính cúng dường, cũng được đến khắp vô lượng vô số
chỗ chư Phật mười phương tu các công đức.
Nầy A Dật Ða! Có Bồ Tát nào sanh lòng nghi hoặc đối
với Phật trí thì mất lợi lớn. Vì thế nên phải biết và tin trí
huệ vô thượng của Phật”.
74
Ngài Di Lặc Bồ Tát thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ở cõi
Ta Bà nầy có bao nhiêu Bồ Tát bất thối sanh về nước An
Lạc ấy?”.
– Nầy A Dật Ða! Cõi Ta Bà nầy có sáu mươi bảy ức
Bồ Tát bất thối sanh về nước An Lạc ấy. Mỗi Bồ Tát nầy
đã từng cúng dường vô số chư Phật gần như Di Lặc vậy.
Còn hàng tiểu Bồ Tát và người tu tập công đức ít thì số
đông chẳng thể kể nói, sẽ được sanh về nước ấy.
Nầy A Dật Ða! Chẳng phải chỉ có các Bồ Tát ở cõi nầy
vãng sanh nước ấy mà quốc độ phương khác cũng như vậy.
Trong nước của đức Phật thứ nhứt là đức Phật Viễn
Chiếu có một trăm tám mươi ức Bồ Tát, sẽ đều vãng sanh
về nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật.
Ðức Phật thứ hai là Ðức Bửu Tạng Phật, có chín mươi ức
Bồ Tát đều sẽ vãng sanh.
Ðức Phật thứ ba là đức Phật Vô Lượng Âm có hai trăm hai
mươi ức Bồ tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ bốn là đức Phật Cam Lộ Vị có hai trăm năm
mươi ức Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ năm là đức Phật Long Thắng có mười bốn ức
Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ sáu là đức Phật Thắng Lực có một vạn bốn
ngàn Bồ tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ bảy là đức Phật Sư Tử có năm trăm ức Bồ
Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ tám là đức Phật Ly Cấu Quang có tám mươi
ức Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
75
Ðức Phật thứ chín là đức Phật Ðức Thủ có sáu mươi ức Bồ
Tát đều sẽ vãng sanh.
Ðức Phật thứ mười là đức Phật Diệu Ðức Sơn có sáu mươi
ức Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ mười một là đức Phật Nhơn Vương có mười
ức Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ mười hai là đức Phật Vô Thượng Hoa có vô
số bất khả xưng kể Bồ Tát sẽ đều vãng sanh.
Ðức Phật thứ mười ba là đức Phật Vô Úy có bảy trăm chín
mươi ức đại Bồ tát, chư Bồ Tát nhỏ và chúng Tỳ Kheo
chẳng tính kể được, đều sẽ vãng sanh về nước An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ Phật.
Nầy A Dật Ða! Chẳng phải chỉ có chúng sanh trong
mười bốn cõi nước trên đây sẽ vãng sanh về nước An Lạc,
mà trong thế giới mười phương có vô lượng cõi nước,
chúng sanh vãng sanh cũng như vậy, rất đông rất nhiều,
dầu ta có kể nói luôn ngày đêm suốt một kiếp cũng chẳng
hết được. Nay ta chỉ nói lược đó thôi.
Nầy A Dật Ða! Có ai được nghe danh hiệu đức Vô
Thượng Thọ Phật mà hớn hở vui mừng cho đến chừng một
niệm, phải biết người ấy đã được lơi ích rất lớn, là đã đầy
đủ công đức vô thượng.
Vì thế nên giả sử có lửa lớn đầy khắp cả Ðại Thiên thế
giới vẫn cần phải lướt qua để nghe kinh pháp nầy rồi vui
mừng tin ưa thọ trì đọc tụng tu hành đúng theo.
Tại sao vậy? Có rất nhiều Bồ tát muốn được nghe kinh
nầy mà chẳng được. Nếu chúng sanh vào nghe kinh nầy thì
76
không con thối chuyển đạo Vô thượng Chánh giác. Vì lẽ ấy
nên cần phải chuyên tâm tin ưa thọ trì đọc tụng giảng
thuyết thực hành.
Nay ta vì chúng sanh mà nói kinh pháp nầy, làm cho họ
được thấy đức Vô Lượng Thọ Phật, tất cả vạn vật ở nước
An Lạc và Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn ở nước ấy.
Chớ nên sau khi ta diệt độ mà sanh lòng nghi hoặc.
Ðời tương lai, lúc kinh pháp diệt tận, ta dùng oai lực từ
bi đặc biệt lưu kinh nầy lại một trăm năm, có chúng sanh
nào gặp kinh nầy thì tùy ý họ nguyện cầu đều được độ
thoát.
Nầy A Dật Ða! Ðức Như Lai ra đời khó gặp khó thấy,
kinh pháp của Phật khó được khó nghe. Các môn Ba la
mật, các pháp thù thắng của Bồ Tát được nghe cũng khó.
Gặp thiện tri thức nghe pháp mà làm được cũng là khó.
Nếu nghe kinh nầy mà tin ưa thọ trì thì là khó trong
khó, không gì khó hơn. Vì thế nên pháp của ta, làm như
vậy, nói như vậy, dạy như vậy, phải nên tin thuận y theo tu
hành”.
Lúc đức Thế Tôn nói kinh nầy, có vô lượng chúng sanh
phát tâm Vô thượng Bồ đề. Một muôn hai ngàn na do tha
người được pháp nhãn thanh tịnh. Hai mươi hai ức chư
Thiên và nhơn dân được quả A Na Hàm. Tám mươi vạn Tỳ
Kheo lậu tận ý giải thành A La Hán. Bốn mươi ức Bồ Tát
được chẳng thối chuyển, dùng công đức hoằng thệ tự trang
nghiêm, ở đời tương lai sẽ thành Chánh Giác.
77
Bấy giờ Ðại Thiên thế giới chấn động sáu cách. Quang
minh lớn chiếu khắp cõi nước mười phương. Trăm ngàn
âm nhạc tự nhiên hòa tấu. Vô lượng hoa đẹp thơm tho rưới
xuống.
Ðức Phật nói kinh nầy xong, Di Lặc Bồ Tát và chúng
Bồ Tát từ mười phương đến, Trưởng lão A Nan và chư đại
Thanh Văn, tất cả đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |