Microsoft Word Tịnh Độ Tam Kinh doc



tải về 0.62 Mb.
Chế độ xem pdf
trang3/11
Chuyển đổi dữ liệu29.06.2023
Kích0.62 Mb.
#54917
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11
tinh-do-tam-kinh

 
 
 
 
 
 
 


12 
KINH VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT 
Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải 
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá, 
trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một vạn 
hai ngàn người câu hội. Các Ngài nầy đều là bực đại Thanh 
Văn mà mọi người quen biết. Ðó là Tôn giả A Nhã Kiều 
Trần Như, Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả Ðại Danh, Tôn giả 
Hữu Hiền, Tôn giả Vô Cấu, Tôn giả Danh Văn, Tôn giả 
Thiện Xưng, Tôn giả Viên Mãn, Tôn giả Kiều Phạm Ba đề, 
Tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Tôn giả Già Da Ca diếp, 
Tôn giả Na Ðề Ca Diếp, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn giả 
Xá lợi Phất, Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ma Ha 
Ca Chiên Diên, Tôn giả Ma Ha Kiếp Tân Na, Tôn giả Ma 
Ha châu Na, Tôn giả Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, Tôn giả 
A Nâu Lâu Ða, Tôn giả Ly Bà Ða, Tôn giả Nan Ðà, Tôn 
giả La Hầu La, Tôn giả A Nan đà v.v… các Tôn giả nầy 
làm Thượng thủ. 
Lại có chúng đại Bồ tát, các Ngài Phổ Hiền Bồ tát, Văn 
Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và chư đại Bồ Tát trong 
kiếp Hiền sau trước vây quanh. 
Lại cùng Hiền Hộ v.v… mười sáu vị Chánh Sĩ câu hội. 
đó là các Ngài Thiện Tri Duy Nghĩa Bồ tát, Huệ Biện Tài 
Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thiện Hoa Thần Thông Bồ 
Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ 
Tát, Huệ Nguyện Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bửu 
Tràng Bồ Tát v.v… làm Thượng thủ. 


13 
Chư đại Bồ Tát nầy đều tuân tu hạnh Phổ Hiền, đầy đủ 
tất cả hạnh nguyện Bồ Tát, an trụ trong tất cả công đức,đến 
bờ Phật pháp rốt ráo kia, nguyện ở trong tất cả thế giới 
thành Ðẳng Chánh Giác. Lại nguyện sanh cung trời Ðâu 
suất, ở đó thọ chung giáng sanh ở hông bên hữu, hiện đi 
bảy bước phóng ánh sáng lớn chấn động khắp thế giới mà 
xướng lên rằng: Nơi tất cả thế gian, ta là tôn quý hơn cả.
Ðế Thích và Phạm Thiên đều đến thân cận cúng dường. Lại 
hiện học tập lục nghệ hơn người, ở vương cùng nhàm chán 
ngũ dục, thấy người già bịnh chết liền biết đời là vô thường 
rời bỏ ngôi vua vượt thành học đạo, cởi lụa là chuỗi ngọc 
mặc y hoại sắc, khổ hạnh sáu năm. Ở cõi ngũ trược nầy có 
thể thị hiện như vậy. Vì thuận theo thế gian, đến tắm tại 
sông Ni Liên rồi đi tới đạo tràng. Long Vương ca tụng 
nghinh tiếp. Chư Bồ tát đi nhiễu bên hữu ngợi khen. Nhận 
lấy cỏ tự tay trải dưới cội cây Bồ đề rồi ngồi kiết già. Lại 
hiện quân ma bao vây làm hại. Dùng sức định huệ hàng 
phục mà oán. Thành bậc vô thượng Chánh giác. Phạm 
Vương thỉnh chuyển pháp luân dũng mãnh vô úy. Âm 
thanh của Phật vang rền, đánh trống pháp, thổi loa pháp, 
dựng tràng pháp, thắp đuốc pháp, nhiếp chánh pháp và các 
thiền định, mưa pháp vũ nhuần thấm quần sanh, chấn sấm 
pháp khai ngộ tất cả quốc độ, quang minh chiếu khăáp thế 
giới, mặt đất rúng động, cung ma sụp đổ, Ma Vương Ba 
Tuần kinh sợ, phá giặc phiền não, xé lưới tà kiến, xa rời ác 
pháp, sanh lớn thiện pháp, với món đồ ăn của tín thí có thể 
ăn có thể tiêu, vì điều phục chúng sanh mà tuyên dương 


14 
diệu lý, hoặc hiện mỉm cười phóng trăm ngàn tia sáng lên 
bực quán đảnh thọ ký Bồ đề, hoặc thành Phật đạo, hiện 
nhập Niết bàn, khiến vô lượng hữu tình đều được quả vô 
lậu, thành thực thiện căn cho vô biên Bồ Tát. Trong tất cả 
cõi Phật đều có thể thị hiện như vậy. 
Ví như nhà ảo thuật biết rõ ảo thuật có thể hiện ra 
những tướng nam nữ v.v. ở trong các tướng ấy thiệt không 
có được. 
Cũng vậy, chư Bồ Tát khéo học vô biên ảo thuật công đức 
nên hay thị hiện biến hóa, hay khéo biết rõ đạo biến hóa, 
nên ở các quốc độ hiện đại từ bi đều có thể lợi ích tất cả 
quần sanh. Thành tựu vô biên hạnh nguyện Bồ Tát. Thông 
đạt bình đẳng vô lượng nghĩa môn. Tu hành đầy đủ tất cả 
pháp lành. Bình đẳng thẳng vào trong các cõi Phật. Thường 
được chư Phật khuyến tấn và gia hộ oai thần. Ðược tất cả 
Như Lai rõ biết ấn khả. Vì giáo hóa chư Bồ Tát mà làm A 
Xà Lê. Thường tu tập thành tựu vô biên công hạnh. Thông 
đạt tất cả pháp giới hạnh. Hay biết rành rẽ hữu tình và quốc 
độ. Cũng thường đi đến cúng dường chư Phật. Hiện các thứ 
thân hình như là ảnh tượng. Khéo học pháp vô úy, phá lưới 
ma, trừ tà kiến, qua khỏi quyến thuộc hiền não và bạn ma 
dân ma. Hơn hẳn bực Thanh Văn và Bích Chi Phật. Nhập 
môn không, vô tướng và vô nguyện, mà hay an trụ phương 
tiện thiện xảo. Chẳng hề thích Niết bàn của nhị thừa. Ðược 
các tam muội vô sanh vô diệt và các môn đà la ni. Các căn 
quảng đại, biện tài quyết định, nơi tạng pháp Bồ Tát hay 
biết rõ Phật hoa tam muội, tùy thời ngộ nhập. Ðủ biết tất cả 


15 
các thứ thậm thâm thiền định. Tất cả chư Phật đều hiện ra 
trước. Trong khoảng một niệm đi khắp cõi Phật, quanh 
vòng qua lại vẫn chẳng khác thời gian, cứu vớt nạn khổ. 
Phân biệt hiển bày chơn thiệt bổn tế. Ðược Phật hiện tài, 
trụ hạnh Phổ Hiền. Hay phân biệt rõ ngôn ngữ của chúng 
sanh. Vượt hơn tất cả pháp thế gian. Biết rành tất cả pháp 
xuất thế. Nơi tất cả vạn vật tùy ý tự tại. Với tất cả hữu tình 
làm bạn chẳng chờ thỉnh. Có thể chấp trì pháp tạng của tất 
cả Như Lai. An trụ chẳng dứt chủng tánh tất cả Phật. 
Thương mến hữu tình mở bày pháp nhãn cho họ. Bít cửa ác 
đạo, mở cửa thiện đạo. Với tất cả hữu tình xem như cha mẹ 
anh em. Lại xem chúng sanh không khác thân mình. Tất cả 
pháp lành đều được rốt ráo. Vô lượng công đức của chư 
Phật đều đã được. Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn. 
Chúng đại Bồ Tát vô lượng vô biên như vậy đồng đến pháp 
hội. 
Lúc bấy giờ sắc diện của đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ. 
Thừa oai thần của đức Phật, Tôn giả A Nan từ chỗ ngồi 
đứng dậy chỉnh lý y phục, trịch vai hữu, gối hữu chấm đất 
chắp tay hướng lên đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế 
Tôn! Hôm nay sắc diện của đức Thế Tôn vui vẻ sáng rỡ, 
trong sạch như gương sáng, từ nào chưa từng được thấy. 
Bạch đức Thế Tôn! Tôi tự nghĩ rằng hôm nay đức Thế Tôn 
an trụ chỗ an trụ của chư Phật. Hôm nay Ðức Thế Nhãn an 
trụ nơi hạnh của bực đạo sư. Hôm nay đức Thế Anh an trụ 
nơi đạo tối thắng. Hôm nay đức Thế Hùng hành công đức 
của Như Lai. 


16 
Phải chăng hôm nay đức Thế Tôn nghĩ nhớ đến chư Phật 
quá khứ, vị lai, hiện tại?”. 
Ðức Phật phán dạy: “Nầy A Nan! Sao ông biết được 
việc ấy, chư Thiên bảo ông, hay là ông tự thấy biết?”. 
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy sắc 
diện của đức Thế Tôn rạng rỡ ít khi có, nên mới bạch hỏi 
như vậy, chẳng phải là do chư Thiên mách bảo”. 
Ðức Phật phán dạy: “Lành thay, lành thay! Nầy A Nan! 
Ông phát trí huệ biện tài hỏi được Như Lai việc ấy. Ông là 
Ðại Sĩ hi hữu như hoa Ưu Ðàm xuất hiện thế gian, có lòng 
đại bi lợi ích chúng sanh, nên thưa hỏi việc ấy. 
Nầy A Nan! Ðức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác hay 
khai thị được vô lượng tri kiến. Tại sao? Vì Như Lai tri 
kiến vô chướng vô ngại. 
Nầy A Nan! Như Lai Chánh đẳng Chánh giác, nếu 
muốn ở thế gian, có thể ở đến vô lượng vô số trăm ngàn ức 
na do tha kiếp, hoặc là tăng hơn số lượng trên, mà thân thể 
của Như Lai và các căn vẫn không tổn giảm. Tại sao vậy? 
Vì Như Lai được tam muội tự tại rốt ráo. Nơi tất cả pháp là 
tự tại hơn hết. 
Nầy A Nan! Ông phải lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta 
sẽ vì ông mà phân biệt giải nói”. 
Ngài A Nan thưa: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Tôi 
mong muốn được nghe đức Phật chỉ dạy”. 
Ðức Phật bảo Ngài A Nan: “Thuở xưa quá a tăng kỳ vô 
số đại kiếp có Phật xuất thế hiệu là Nhiên Ðăng Như Lai 
giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh. 


17 
Sau đó có Quang Viễn Phật, Nguyệt Quang Phật, 
Chiên Ðàn Hương Phật, Thiện Sơn Vương Phật, Tu Di 
Thiên Quang Phật, Tu Di Ðẳng Diệu Phật, Nguyệt Sắc 
Phật, Chánh Niệm Phật, Ly Cấu Phật, Vô Trước Phật, 
Long Thiên Phật, Dạ Quang Phật, An Minh Ðảnh Phật, Bất 
Ðộng Ðịa Phật, Lưu Ly Diệu Hoa Phật, Lưu Ly Kim Sắc 
Phật, Kim Tạng Phật, Viêm Quang Phật, Viêm Căn Phật, 
Ðịa Chủng Phật, Nguyệt Tượng Phật, Nhật Âm Phật, Giải 
Thoát Hoa Phật, Trang Nghiêm Quang Minh Phật, Hải 
Giác Thần Thông Phật, Thủy Quang Phật, Ðại Hương Phật, 
Ly Trần Cấu Phật, Xả Yểm Ý Phật, Bửu Viêm Phật, Diệu 
Ðảnh Phật, Dũng Lập Phật, Công Ðức Trì Huệ Phật, Tỳ 
Nhựt Nguyệt Phật, Vô Thượng Lưu Ly Quang Phật, Tối 
Thượng Thủ Phật, Bồ Ðề Hoa Phật, Nguyệt Minh Phật, 
Nhựt Quang Phật, Hoa Sắc Hương Phật, Thủy Nguyệt 
Quang Phật, Trừ Si Minh Phật, Ðộ Cái Hạnh Phật, Tịnh tín 
Phật, Thiện Tú Phật, Oai Thần Phật, Pháp Huệ Phật, Loan 
Âm Phật, Sư Tử Âm Phật, Long Âm Phật, Xử Thế Phật, 
Chư Phật như vậy kế tiếp nhau xuất hiện ra đời. 
Kế đó có đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, 
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, 
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, 
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. 
Lúc đó có Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp 
lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ đề, từ bỏ ngôi vua 
xuất gia làm Tỳ Kheo hiệu là Pháp Tạng, đến chỗ đức Phật 


18 
Thế Tự Tại Vương, cúi lạy chơn đức Phật, đi quanh bên 
hữu ba vòng, quỳ dài chắp tay nói kệ tụng khen rằng: 
Sắc diện Phật rực rỡ 
Oai Thần Phật vô cực 
Ánh sáng chói như vậy 
Không ai sánh bằng Phật 
Mặt nhựt và mặt nguyệt 
Cùng ma ni bửu châu 
Ánh sáng bị che lấp 
Chẳng khác gì đống mực 
Dung nhan của Như Lai 
Thế gian không ai sánh 
Viên âm của Như Lai 
Vang khắp đến mười phương 
Giới, đa văn, tinh tiến 
Tam muội và trí huệ 
Oai đức không ai sánh 
Rất thù thắng hy hữu 
Ðế lý sâu, niệm lành 
Pháp hải của chư Phật 
Ðã cùng tận thâm áo 
Tột bờ và suốt đáy 
Vô minh và tham sân 
Thế Tôn đã không hẳn 
Ðấng nhơn hùng sư tử 
Thần đức không thể lường 
Công huân Phật rộng lớn 


19 
Trí huệ sâu vi diệu 
Quang minh tướng oai nghi 
Chấn động cõi Ðại Thiên 
Nguyện tôi lúc làm Phật 
Bằng với đấng Pháp Vương 
Vượt khỏi dòng sanh tử 
Không gì chẳng giải thoát 
Bố thí và trì giới 
Nhẫn nhục và tinh tiến 
Thiền định các tam muội 
Trí huệ là trên hết 
Tôi thề được làm Phật 
Làm khắp hết nguyện nầy 
Tất cả sự khủng bố 
Tôi sẽ làm an ổn 
Giả sử có chư Phật 
Số trăm ngàn muôn ức 
Vô lượng đấng đại Thánh 
Như số cát sông Hằng 
Dầu cúng dường tất cả 
Chư Phật Thế Tôn ấy 
Vẫn chẳng bằng cầu đạo 
Tâm vững chắc chẳng bỏ 
Thí như hằng hà sa 
Thế giới của chư Phật 
Lại có bất khả kể 
Vô số những quốc độ 


20 
Quang minh đều chiếu đến 
Khắp hết những cõi ấy 
Siêng tinh tấn như vậy 
Sức oai thần khó lường 
Nếu lúc tôi làm Phật 
Cõi nước tôi đệ nhứt 
Rất nhiều thứ kỳ diệu 
Ðạo tràng rất siêu tuyệt 
Cõi nước như Niết bàn 
Không cõi nào sánh bằng 
Tôi sẽ luôn thương nhớ 
Ðộ tất cả chúng sanh 
Người mười phương sanh về 
Lòng vui mừng thanh tịnh 
Ðã về đến nước tôi 
Ðều sung sướng an ổn 
Trông mong Phật chứng minh 
Cho tôi được thành tựu 
Do sức muốn tinh tiến 
Tôi phát nguyện như trên 
Mười phương chư Thế Tôn 
Trí huệ lớn vô ngại 
Khiến cho Thế Tôn nầy 
Biết tâm niệm của tôi 
Giả sử thân tôi ở 
Trong những chốn khốn khổ 


21 
Tôi tinh tiến hành đạo 
Chịu đựng chẳng hối tiếc. 
Nầy A Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng nói kệ tụng xong 
bạch đức Phật Thế Tự Tại Vương rằng: 
Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, 
xin đức Thế Tôn rộng tuyên kinh pháp cho. Tôi sẽ tu hành 
nhiếp lấy Phật quốc thanh tịnh vô lượng trang nghiêm. 
Khiến tôi mau thành bực Chánh giác nhổ hết gốc rễ sanh tử 
khổ lụy.
Thế Tự Tại Vương Như Lai nói với Pháp Tạng Tỳ 
Kheo rằng: “Công hạnh tu hành trang nghiêm Phật độ, ông 
tự biết lấy.” 
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa: 
“Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa ấy sâu rộng chẳng phải 
cảnh giới của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn chỉ dạy công 
hạnh Tịnh độ của chư Phật Như Lai. Tôi được nghe rồi sẽ y 
theo tu hành để hoàn thành sở nguyện.” 
Lúc ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương biết Tỳ Kheo Pháp 
Tạng cao minh chí nguyện sâu rộng liền giảng dạy rằng: 
“Ví như biển cả kia, có một người lấy đấu múc nước trải 
qua kiếp số còn có thể cạn đến đáy được châu báu vi diệu. 
Có người chí tâm tinh tiến cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết 
quả, có nguyện gì mà chẳng được thành.” 
Rồi đức Thế Tự Tại Vương Phật nói rộng hai trăm 
mười ức quốc độ chư Phật, những là sự thiện ác của hàng 
thiên nhơn, những sự xấu tốt của cõi nước, và ứng theo tâm 
nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy cả. 


22 
Nghe và thấy các quốc độ nghiêm tịnh, Tỳ Kheo Pháp 
Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng vô thượng, tâm Ngài 
tịch tịnh, trí Ngài rỗng rang, tất cả thế gian không có ai 
bằng. Trọn đủ năm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy công hạnh 
trang nghiêm thanh tịnh nước Phật. 
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người cõi Phật 
xưa ấy thọ mạng bao lâu?”. 
Ðức Phật nói: “Nầy A Nan! Ðức Phật Thế Tự Tại 
Vương thọ mạng bốn mươi hai kiếp. 
Thuở ấy, Tỷ Kheo Pháp Tạng nhiếp lấy công hạnh 
thanh tịnh trang nghiêm hai trăm mười ức nước Phật và tu 
tập xong, Ngài đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai 
cúi lạy chân Phật, đi quanh bên hữu ba vòng chắp tay đứng 
lại bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã nhiếp lấy công 
hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.” 
Ðức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói: 
“Nay ông nên trình bày, phải biết là đúng lúc, để phát 
khởi và làm vui đẹp tất cả đại chúng. Bồ Tát tu hành pháp 
ấy thì sẽ đầy đủ vô lượng đại nguyện.” 
Tỳ Kheo Pháp Tạng thưa: 
“Bạch Ðức Thế Tôn! Mong được xét soi, tôi sẽ trình rõ 
những điều nguyện mà tôi đã phát. 
1.Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ 
quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
2.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau 
khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 


23 
3.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
4.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc 
thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
5.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức 
na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
6.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha 
cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
7.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm 
ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 
8.Giả sư khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh 
trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy 
ngôi chánh giác. 
9.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng 
được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm 
ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 


24 
10.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu 
sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy 
ngôi chánh giác. 
11.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, 
chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
12.Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối 
thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư 
Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
13.Giả sử khi tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối 
thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
14.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh Văn trong nước 
tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong 
cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung 
tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì 
tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
15.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ 
mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài 
ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 
16.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà 
còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 


25 
17.Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư 
Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì 
tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
18.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương 
chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, 
nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
19.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương 
phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện 
muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại 
chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy 
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
20.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương 
nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những 
cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà 
chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
21.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi 
chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng 
lấy ngôi chánh giác. 
22.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác 
sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. 
Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà 
mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các 
nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười 
phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ 
đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh 


26 
của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu 
không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
23.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi thừa 
thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu 
không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì 
tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
24.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi ở trước 
chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng 
dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
25.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng 
thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
26.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng 
được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
27.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn 
vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc 
đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là 
có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng 
lấy ngôi chánh giác. 
28.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn 
đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng 
thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 


27 
29.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc 
tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ 
biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
30. Giả sử khi tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát 
trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
31.Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất 
cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười 
phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu 
không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
32.Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, 
những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật 
trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ 
hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên 
nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương 
Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không 
như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
33.Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô 
lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh 
tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên 
nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 
34.Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô 
lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi 
mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì 
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 


28 
35.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng 
bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui 
mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu 
sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng 
lấy ngôi chánh giác. 
36.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng 
bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu 
tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật 
đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
37.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô 
lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi 
rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa 
tu hạnh Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời đều kính 
trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 
38.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi 
muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp 
đúng pháp như Phật khen ngợ tự nhiên mặc trên thân. Nếu 
còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh 
giác. 
39.Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi 
hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 


29 
40.Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn 
thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười 
phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở 
trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong 
gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
41.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật 
nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 
42.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được 
thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, 
cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, 
mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 
43.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh 
nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi 
chánh giác. 
44.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh 
Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi 
chẳng lấy ngôi chánh giác. 
45.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ 


30 
đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành 
Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. 
Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
46.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi 
tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền 
tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy 
ngôi chánh giác. 
47.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến 
bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 
48.Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ 
phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ 
nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật 
pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy 
ngôi chánh giác. 
Tuyên bốn mươi tám đại nguyện ấy xong, Tỳ Kheo 
Pháp Tạng nói kệ tụng rằng: 
Tôi lập nguyện hơn đời 
Tất đến đạo vô thượng 
Nguyện nầy chẳng đầy đủ 
Thề chẳng thành chánh giác 
Tôi ở vô lượng kiếp 
Chẳng làm đại thí chủ 
Cứu khắp kẻ nghèo khổ 
Thề chẳng thành chánh giác 
Tôi đến lúc thành Phật 


31 
Danh tiếng siêu mười phương 
Trọn có người chẳng nghe 
Thề chẳng thành chánh giác 
Ly dục, chánh niệm sâu 
Tịnh huệ, tu phạm hạnh 
Chí cầu đạo vô thượng 
Làm thầy hàng trời người 
Thần lực phóng quang minh 
Chiếu khắp vô biên cõi 
Tiêu trừ tối phiền não 
Cứu thoát những ách nạn 
Khai mắt trí huệ kia 
Trừ tối mù lòa nầy 
Ðóng bít các ác đạo 
Thông đạt cửa thiện đạo 
Công đức thành đầy đủ 
Oai sáng chói mười phương 
Sáng hơn mặt nhựt nguyệt 
Thiên quang bị khuất lấp 
Vì chúng khai pháp tạng 
Rộng ban báu công đức 
Thường ở trong đại chúng 
Thuyết pháp sư tử rống 
Cúng dường tất cả Phật 
Ðầy đủ những công đức 
Nguyện, huệ đều viên mãn 
Ðược làm bực Thế Tôn 


32 
Như Phật vô ngại trí 
Thông đạt chiếu tất cả 
Nguyện công đức của tôi 
Bằng Tối Thắng Tôn nầy 
Nguyện đây nếu quả toại 
Ðại Thiên nên cảm động 
Chư Thiên Thần trên không 
Sẽ mua hoa báu đẹp. 
Tỳ Kheo Pháp Tạng nói kệ xong, khắp mặt đất liền 
chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp rải trên mình Ngài. 
Âm nhạc tự nhiên trên hư không khen rằng: Quyết định 
chắc thành Vô thượng Chánh giác. 
Từ đó Tỳ Kheo Pháp Tạng tu tập đầy đủ những đại 
nguyện ấy chắc thiệt chẳng luống vượt khỏi thế gian. 
Nầy A Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng ở chỗ đức Phật Thế 
Tự Tại Vương và giữa đại chúng, chư Thiên, Ma, Phạm, 
Long Thần Bát Bộ mà phát hoằng thệ ấy. Sau khi lập thệ 
rồi, Ngài chuyên chí trang nghiêm tịnh độ tốt đẹp rộng lớn 
thù thắng hơn cả, không suy không biến đổi. Trong thời 
gian bất khả tư nghị triệu tải kiếp lâu xa, Ngài tích chứa vô 
lượng đức hạnh Bồ Tát, chẳng sanh dục giác, sân giác, hại 
giác, chẳng khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, chẳng 
trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thành tựu nhẫn lục 
chẳng kể những sự khổ, thiểu dục tri túc không có tham sân 
si, chánh định thường vắng lặng, trí huệ vô ngại, không có 
tâm hư ngụy siểm khúc, hòa nhan ái ngữ hỏi thăm trước, 
dũng mãnh tinh tiến chí nguyện không mỏi nhàm chuyên 


33 
cầu lấy pháp thanh bạch, đem ân huệ ban cho quần sanh 
được lợi ích, dùng đại trang nghiêm đầy đủ những công 
hạnh, khiến các chúng sanh thành tựu công đức, an trụ nơi 
pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi, quán 
các pháp như huyễn như hóa, rời xa lời thô ác hại mình hại 
người, mình người đồng hại, tu tập lời lành, lợi mình lợi 
người, mình người đồng lợi, bỏ nước thôi vua, dứt bỏ tài 
sắc, tự làm sáu môn Ba la mật cũng dạy người cùng làm, 
trong vô ương số kiếp tích công chứa đức, tùy sanh ở chỗ 
nào theo ý muốn, có vô lượng kho báu tự nhiên phát hiện, 
giáo hóa an lập vô số chúng sanh an trụ nơi đạo Vô thượng 
Chánh giác, hoặc làm trưởng giả cư sĩ họ quý dòng sang, 
hoặc làm Quốc Vương Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc 
làm Thiên Vương ở sáu cõi trời Dục giới nhẫn đến làm 
Phạm Vương, thường đem tứ sự cúng dường cung kính tất 
cả chư Phật, Tỳ Kheo Pháp Tạng có những công đức như 
vậy chẳng thể kể hết. 
Miệng Ngài hơi thơm như hoa sen xanh, lỗ lông trên 
thân tiết hơi thơm chiên đàn, hơi thơm nầy xông khắp vô 
lượng thế giới. Dung sắc Ngài đoan chánh đủ những tướng 
tốt. Tay Ngài thường xuất sanh những châu báu vô tận, 
những là y phục, thức ăn uống, hoa báu đẹp, hương quý 
thơm, bảo cái, tràng phan những đồ trang nghiêm. Những 
sự như vậy hơn hẳn hàng thiên nhơn, với tất cả pháp đều 
được tự tại”. 


34 
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ 
Tát đã thành Phật và nhập diệt rồi hay hiện nay vẫn còn, 
hay là Ngài chưa thành Phật?”. 
Ðức Phật phán: “Nầy A Nan! Pháp Tạng Bồ Tát đã 
thành Phật, nay hiện ở tại Tây phương cách đây mười 
muôn ức cõi, hiệu là Vô Lượng Thọ. Thế giới của Ngài tên 
là An Lạc”. 
Ngài A Nan lại thưa:“Bạch đức Thế Tôn! Ðức Phật ấy 
thành đạo đến nay đã được bao lâu?”. 
Ðức Phật phán:“Nầy A Nan! Ngài thành Phật đến nay 
được mười kiếp. 
Cõi nước của đức Phật ấy, tự nhiên thất bảo: vàng, bạc, 
lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hiệp làm thành đất 
rộng lớn vô hạn. Bảy báu ấy xen lẫn nhau chói sáng đẹp lạ 
trang nghiêm thanh tịnh hơn cả những tinh túy châu bảo 
của tất cả thế giới. Thất bảo ấy như thất bảo của cung trời 
thứ sáu. 
Lại quốc độ ấy không có núi Tu Di, núi Kim Cương, 
núi Thiết Vi, tất cả các núi, cũng không có biển lớn, biển 
nhỏ, sông ngòi hang giếng. Do thần lực của Phật, ai muốn 
thấy thì được thấy, quốc độ ấy cũng không có địa ngục, ngạ 
quỷ, súc sanh, không có bốn mùa xuân hạ thu đông. Chẳng 
lạnh chẳng nóng, thường ôn hòa điều thích”. 
Ngài A Nan thưa:“Bạch đức Thế Tôn! Nếu quốc độ ấy 
không có núi Tu Di, thì Trời Tứ Thiên Vương và Trời Ðao 
Lợi ở nơi đâu?”. 


35 
Ðức Phật phán: “Nầy A Nan! Trời Dạ Ma thứ ba lên 
đến Trời Sắc Cứu Cánh đều nương ở đâu?”. 
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Hành nghiệp và quả 
báo chẳng thể nghĩ bàn”. 
Ðức Phật phán: “Nầy A Nan! Hành nghiệp và quả báo 
chẳng thể nghĩ bàn, thế giới của chư Phật chẳng thể nghĩ 
bàn. Sức lành công đức của chúng sanh ấy ở đất hành 
nghiệp nên được như vậy”. 
Ngài A Nan thưa:“Bạch đức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng 
nghi pháp ấy, chỉ vì chúng sanh đời sau, muốn trừ lòng 
nghi ngờ của họ nên tôi hỏi đức Phật về nghĩa ấy”. 
Ðức Phật phán:“Nầy A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ 
oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư 
Phật chẳng bằng. Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm 
thế giới, ngàn thế giới, nhẫn chiếu đến chiếu suốt hằng sa 
thế giới chư Phật ở phương Ðông, chín phương kia cũng 
vậy. Còn chư Phật khác, hoặc có Phật quang chiếu bảy 
thước, hoặc chiếu một do tuần, hai ba bốn năm do tuần, gấp 
bội như vậy cho đến hoặc có Phật quang chiếu một cõi 
nước Phật. 
Vì thế nên đức Phật Vô Lượng Thọ hiệu là Vô Lượng 
Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, 
Vô Ðối Quang Phật, Diệm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh 
Quang Phật, Hoan Hỉ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, 
Bất Ðoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng 
Quang Phật và Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật. 


36 
Có chúng sanh nào gặp được quang minh ấy thì tiêu trừ 
tham sân si, thân ý nhu nhuyến, hớn hở vui mừng tâm lành 
phát sanh. 
Nếu là kẻ ở tam đồ chỗ rất khổ thấy được quang minh 
ấy thì khổ sở thôi dứt không còn, sau khi mạng chung đều 
được thoát khỏi. 
Quang minh của đức Phật Vô Lượng Thọ sáng rỡ chiếu 
đến quốc độ của chư Phật mười phương, không cõi nước 
nào chẳng chiếu thấu. Chẳng riêng gì ta hôm nay khen 
quang minh của Ngài, mà tất cả chư Phật, chúng Bồ Tát, 
Thanh Văn và Duyên Giác đều cũng ca ngợi như vậy. 
Nếu có chúng sanh nào nghe oai thần công đức của 
quang minh Phật Vô Lượng Thọ rồi ngày đêm khen nói chí 
tâm chẳng ngớt, thì tùy ý họ muốn được sanh về quốc độ 
của đức Phật ấy, được chúng Bồ Tát, Thanh Văn đồng 
khen ngợi công đức của họ, đến lúc tối hậu, khi họ thành 
Phật, Bồ Tát khen quang minh của họ cũng như vậy. 
Ðức Phật phán tiếp:“Ta nói oai thần quang minh vòi 
vọi kỳ diệu của đức Phật Vô Lượng Thọ cả ngày đêm suốt 
một kiếp cũng chưa hết được. 
Lại nầy A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ thọ mạng dài 
lâu chẳng nói kể được. Ông biết không, giả sử vô lượng 
chúng sanh ở trong thế giới mười phương đều được thân 
người và đều làm cho thành tựu bực Thanh Văn, Duyên 
Giác đồng hội họp thiền định nhứt tâm hết sức trí huệ của 
họ trải năm ngàn muôn kiếp cùng suy tính số năm kiếp thọ 


37 
mạng dài lâu của đức Phật ấy cũng chẳng biết cùng tận 
được. 
Chúng Bồ Tát, Thanh Văn và hàng thiên nhơn ở quốc 
độ An Lạc ấy thọ mạng dài lâu cũng như vậy, chẳng phải 
tính đếm hay dùng thí dụ mà biết được. 
Chúng Thanh Văn và Bồ Tát ở cõi ấy, số đông vô 
lượng chẳng thể kể nói được. Chúng Thánh ấy có trí huệ 
thông đạt oai lực tự tại, có thể trong bàn tay cầm lấy tất cả 
thế giới. 
Nầy A Nan! Pháp hội ban sơ của đức Vô Lượng Thọ 
Phật, chúng Thanh Văn số đông chẳng nói kể được, chúng 
Bồ Tát cũng vậy. 
Như ông Ðại Mục Kiền Liên, trăm ngàn muôn ức vô 
lượng vô số người, trong thời gian vô sô na do tha kiếp mãi 
đến diệt độ, cùng nhau đồng tính kể, vẫn chẳng thể biết rõ 
số ấy nhiều ít. 
Ví như biển lớn sâu rộng vô lượng, giả sử có người 
chia một sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần lông ấy 
chấm lấy một giọt nước. 
Nầy A Nan! Ý ông nghĩ sao? Giọt nước được chấm lấy ấy 
sánh với biển lớn kia thì thế nào?”. 
– Bạch đức Thế Tôn! Giọt nước được chấm lấy ấy đem 
sánh nhiều ít với dung lượng của biển lớn kia, thì chẳng 
phải tính đếm ngôn từ hay thí dụ mà biết được. 
– Nầy A Nan! Như số người Ðại Mục Kiền Liên, trong 
trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp hội ban sơ kia, số được 
biết như giọt nước, còn số chẳng biết như nước biển lớn. 


38 
Lại nầy A Nan! Trong cõi nước An Lạc, những cây bảy 
báu đầy khắp cả nước: những cây vàng, cây bạc, cây lưu ly, 
cây pha lê, cây san hô, cây mã não, cây xa cừ. Hoặc có 
những cây hai thứ báu, ba thứ báu, nhẫn đến bảy thứ báu 
hiệp chung làm thành. 
Hoặc có cây vàng, lá bông và trái bạc. Hoặc có cây 
bạc, lá bông và trái vàng. Hoặc có cây lưu ly, lá bông và 
trái pha lê. Hoặc có cây thủy tinh, lá bông và trái lưu ly. 
Hoặc có cây san hô, lá bông và trái mã não. Hoặc có cây 
mã não, lá bông và trái lưu ly. Hoặc có cây xa cừ, lá bông 
và trái bằng các báu khác. Hoặc có cây báu: gốc tử kim, 
thân bạch ngân, nhánh lưu ly, cành thủy tinh, lá san hô, 
bông mã não, trái xa cừ. Hoặc có cây báu: gốc bạch ngân, 
thân lưu ly, nhánh thủy tinh, cành san hô, lá mã não, bông 
xa cừ, trái tử kim. Hoặc có cây báu: gốc lưu ly, thân thủy 
tinh, nhánh san hô, cành mã não, lá xa cừ, bông tử kim, trái 
bạch ngân. Hoặc có cây báu: gốc thủy tinh, thân san hô, 
nhánh mã não, cành xa cừ, lá tử kim, bông bạch ngân, trái 
lưu ly. Hoặc có cây báu: gốc san hô, thân mã não, nhánh xa 
cừ, cành tử kim, lá bạch ngân, bông lưu ly, trái thủy tinh. 
Hoặc có cây báu: gốc mã não, thân xa cừ, nhánh tử kim, 
cành bạch ngân, lá lưu ly, bông thủy tinh, trái san hô. Hoặc 
có cây báu: gốc xa cừ, thân tử kim, nhánh bạch ngân, cành 
lưu ly, lá thủy tinh, bông san hô, trái mã não. Những cây 
báu ấy, hàng hàng gặp nhau, thân thân trông nhau, nhành 
nhành chuẩn nhau, lá lá hướng nhau, bông bông thuận 
nhau, trái trái tương đương, màu sắc xinh đẹp chói sáng 


39 
chẳng thể nhìn thấy xiết hết được. Gió mát luôn thổi đến 
phát ra năm âm thanh cung thương vi diệu tự nhiên hòa 
nhau. 
Lại còn cây đạo tràng của đức Vô Lượng Thọ Phật cao 
bốn trăm vạn dặm. Gốc cây đạo tràng ấy chu vi năm ngàn 
do tuần, nhánh lá rợp bốn phía hai mươi vạn dặm. Cây ấy 
do tất cả những thứ báu tự nhiên hiệp thành, trang nghiêm 
với vua châu báu, nguyệt quang ma ni trì hải luân bảo. 
Quanh khắp trong các cành cây, thòng rũ những chuỗi ngọc 
trăm ngàn muôn màu biến dị nhiều cách, vô lượng quang 
minh chiếu sáng vô lượng. Lưới báu trân diệu giăng che 
trên cây. Tất cả sự trang nghiêm theo đúng lúc mà hiện. 
Gió nhẹ hơi động thổi qua các cây báu diễn xuất vô lượng 
âm thanh nói pháp vi diệu, âm thanh ấy vang đến khắp 
quốc độ của chư Phật. Ai tai nghe âm thanh ấy thì được 
thâm pháp nhẫn trụ bực bất thối chuyển đến thành Phật 
đạo, nhĩ căn trong suốt chẳng bị bệnh khổ. Ai mắt thấy, 
mũi biết, lưỡi hay, thân chạm, tâm rõ âm thanh quang minh 
ấy thì đều được thâm pháp nhẫn trụ bực bất thối chuyển 
đến thành Phật đạo, sáu căn trong suốt không có những 
bệnh khổ. 
Nầy A Nan! Nếu hàng thiên nhơn ở nước An Lạc thấy cây 
đạo tràng ấy thì được ba pháp nhẫn: một là âm hưởng nhẫn, 
hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sanh pháp nhẫn. 
Những sự ấy là đều do sức oai thần của đức Vô Lượng Thọ 
Phật, cũng là do sức bổn nguyện, sức nguyện đầy đủ, sức 


40 
nguyện sáng tỏ, sức nguyện kiên cố rốt ráo của đức Vô 
Lượng Thọ Phật vậy. 
Nầy A Nan! Ðế Vương trong đời có trăm ngàn âm 
nhạc, từ Chuyển Luân Thánh Vương nhẫn đến cõi trời thứ 
sáu Ðại Tự Tại Thiên, âm nhạc tuần tự hơn nhau ngàn ức 
muôn lần. Muôn thứ âm nhạc trên Trời Ðại Tự Tại chẳng 
bằng một thứ âm thanh nơi những cây bảy báu ở nước An 
Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật, âm thanh nầy còn hơn 
ngàn ức lần. Cõi nước An Lạc cũng có muôn thứ tự nhiên 
âm nhạc. Tiếng nhạc ấy không tiếng nào chẳng phải là 
tiếng pháp trong trẻo rõ ràng vi diệu hòa nhã, là đệ nhứt 
trong những âm thanh ở các thế giới mười phương. 
Ở nước An Lạc, những giảng đường, tinh xá, cung 
điện, lâu đài đều toàn bảy báu trang nghiêm tự nhiên hóa 
thành. Lại còn có chơn châu, minh nguyệt châu, châu ma 
ni, và các châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên 
nhà.
Bốn phía nhà có những ao tắm bằng bảy báu hoặc rộng 
mười do tuần hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn đến hoặc 
rộng trăm ngàn do tuần, ngang rộng sâu cạn đều riêng một 
thứ. Trong ao, nước bát công đức lặng đầy trong thơm, mùi 
vị như cam lộ.
Ao hoàng kim thì đáy trải cát bạch ngân. 
Ao bạch ngân thì đáy trải cát hoàng kim. 
Ao thủy tinh thì đáy trải cát lưu ly. 
Ao lưu ly thì đáy trải cát thủy tinh. 
Ao san hô thì đáy trải cát hổ phách. 
Ao hổ phách thì đáy trải cát san hô. 


41 
Ao xa cừ thì đáy trải cát mã não. 
Ao mã não thì đáy trải cát xa cừ. 
Ao bạch ngọc thì đáy trải cát tử kim. 
Ao tử kim thì đáy trải cát bạch ngọc. 
Hoặc có ao hai báu, ba báu, nhẫn đến hoặc có ao bảy 
báu chuyển đổi hiệp thành. 
Trên bờ những ao tắm ấy, có cây chiên đàn hoa lá rũ 
rợp mùi thơm khắp nơi. 
Những hoa sen xanh, những hoa sen vàng, hoa sen đỏ, 
hoa sen trắng cõi trời màu nào ánh sáng màu ấy đẹp sáng 
che trên mặt nước. 
Chúng Bồ Tát, Thanh Văn và trời, người nước ấy lúc 
vào ao báu, nếu ý muốn nước ngập bàn chân, thì nước ngập 
bàn chân, ý muốn nước ngập gối thì nước ngập gối, ý muốn 
nước đến lưng thì nước đến lưng, ý muốn nước đến cổ thì 
nước đến cổ, ý muốn nước xối trên thân thì nước liền tự 
nhiên xối trên thân, ý muốn nước trở lại như cũ thì nước trở 
lại như cũ, điều hòa ấm mát tự nhiên theo đúng ý muốn của 
người tắm. Tắm xong, thân thể thơ thới, tinh thần cởi mở, 
phiền não tiêu trừ trong sạch sáng suốt nhẹ nhàng như là 
không có thân. 
Các báu ở đáy ao chói suốt sâu bao nhiêu cũng chiếu 
thấu lên trên. 
Sóng gợn lăn tăn an tường lan đi chẫm rãi không mau 
không chậm, tự nhiên vang lên vô lượng âm thanh vi diệu, 
tùy theo người đáng nên nghe thế nào thì đều được nghe: 


42 
Hoặc nghe tiếng niệm Phật, hoặc nghe tiếng diệu pháp, 
hoặc nghe tiếng ca ngợi Bồ Tát Tỳ Kheo Tăng, hoặc nghe 
tiếng tịch tịnh, hoặc nghe tiếng không vô ngã, hoặc nghe 
tiếng đại từ bi, hoặc nghe tiếng Ba la mật, tiếng thập lực, 
tiếng vô úy, tiếng pháp bất cộng, tiếng thần thông, tiếng trí 
huệ, tiếng vô sở tác, tiếng bất sanh bất diệt, tiếng vô sanh 
nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh và những tiếng diệu 
pháp khác. 
Những âm thanh như vậy đến xứng theo ý người nghe 
làm cho vui mừng vô lượng, thuận theo nghĩa ly dục thanh 
tịnh chơn thiệt tịch diệt, thuận theo Tam bảo, lực, vô úy, 
pháp bất cộng, thuận theo đạo sở hành của các bực Bồ Tát, 
Thanh Văn. 
Nước An Lạc ấy không có tên tam đồ khổ nạn, chỉ có 
âm thanh vui thích tự nhiên, vì thế nên nước ấy được tên là 
An Lạc. 
Nầy A Nan! Nơi quốc độ An Lạc của đức Vô Lượng 
Thọ Phật, những người sanh về đó có đủ sắc thân thanh 
tịnh, các âm thanh vi diệu, thần thông công đức như vậy. 
Cung điện của họ ở, những thứ y phục, uống ăn, hoa hương 
và đồ trang nghiêm đều như là những vật ở cung Trời Ðại 
Tự Tại thứ sáu. 
Người nước ấy muốn ăn, chén bát bảy báu tự nhiên 
hiện ra, những là chén bát bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã 
não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chơn châu đều theo 
đúng ý muốn mà hiện đến, thức uống ăn trăm vị thơm ngon 
tự nhiên đầy trong chén bát ấy. Dầu cho những thức uống 


43 
ăn như vậy mà không có ai ăn. Chỉ thấy sắc ngửi mùi, ý 
cho là ăn thì liền tự nhiên no đủ, thân tâm nhu nhuyến 
không hề tham luyến. Xong rồi tất cả biến mất, đến giờ lại 
hiện ra. 
Nầy A Nan! Cõi nước của đức Phật ấy thanh tịnh an ổn 
khoái lạc vi diệu kế đạo vô vi Niết bàn. 
Trời, người, Thanh Văn và Bồ Tát ở nước ấy trí huệ 
cao minh, thần thông tự tại, đều đồng một thân hình như 
nhau không có tướng khác lạ, chỉ vì thuận theo các nước 
phương khác mà có tên là trời, người. 
Dung mạo của người nước ấy đoan chánh hơn hẳn thế 
gian, nhan sắc vi diệu chẳng phải trời, chẳng phải người, 
đều bẩm thọ thân hình tự nhiên hư vô tột bực. 
Nầy A Nan! Như ở thế gian nầy, người ăn mày nghèo 
cùng tật nguyền đứng cạnh Ðế Vương, hình trạng dung 
mạo của họ có giống nhau không? 
– Bạch đức Thế Tôn! Người ăn mày ấy đứng bên Ðế 
Vương thì xấu xí trăm ngàn muôn ức lần không gì ví dụ 
được. Tại sao vậy? Vì người ăn mày nghèo cùng rất ty tiện, 
áo chẳng che được thân, ăn chẳng no được bụng, đói lạnh 
khốn khổ mất cả sanh lý. Ðó là do đời trước họ chẳng trồng 
cội đức, giữ của chẳng bố thí, càng giàu càng bỏn sẻn, chỉ 
muốn được không, tham cầu không chán, chẳng tin làm 
lành, phạm nhiều sự ác chứa bằng núi. Sau khi chết, tài sản 
tiêu tán. Cả đời khổ thân chứa nhóm rồi vì của mà rầu lo. 
Với mình vô ích, luống làm sở hữu cho kẻ khác. Không 
điều lành để nhờ, không phước đức để nương. Vì thế nên 


44 
sau khi chết đọa vào ác đạo mãi mãi chịu khổ. Hết tội được 
sanh ra làm người hạ tiện ngu si xấu xí. 
Còn Ðế Vương tôn quý trong loài người là do đời trước 
làm phước đức mà được: thương người bố thí, nhơn ái giúp 
đỡ, chánh tín làm lành không gây tội làm hại. Vì thế nên 
sau khi chết do phước đức mà họ được sanh lên trời hưởng 
nhiều vui sướng. Nay họ sanh làm người ở ngôi vua chúa 
tôn quý, nghi dung đoan chánh được mọi người kính trọng, 
mặc đẹp ăn ngon, tùy ý hưởng thọ. Vì phước đức mà được 
như vậy. 
– Nầy A Nan! Ông nói rất phải. Ðế Vương ấy dầu tôn 
quý xinh đẹp nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương 
thì lại xấu xí không khác gì người ăn mày kia ở cạnh Ðế 
Vương. 
Chuyển Luân Thánh Vương nghi dung rất đẹp đệ nhứt 
ở nhơn gian đem sánh với Ðao Lợi Thiên Vương thì lại 
kém hơn trăm ngàn vạn ức lần. 
Ðem thân Thiên Ðế sánh với thân Ðệ Lục Thiên 
Vương cũng lại thua cả vạn ức lần. 
Ðem thân Ðệ Lục Thiên Vương sánh với thân hình 
xinh đẹp của người nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ 
Phật cũng lại không bằng, trăm ngàn muôn ức chẳng thể 
tính kể được. 
Nầy A Nan! Ở nước An Lạc, trời người có những y 
phục, uống ăn, hoa hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, âm 
thanh vi diệu, cung điện, nhà cửa, lâu đài đều cân xứng 
theo thân hình cao thấp lớn nhỏ của họ. Hoặc một báu, hai 


45 
báu, nhẫn đến vô lượng thứ báu tùy theo ý họ muốn mà 
hiện đến. 
Nước ấy lại có gấm lụa vi diệu trải trên đất báu, trời 
người nước ấy đi trên đó. 
Nước An Lạc ấy được giăng che với vô lượng màng 
lưới báu bằng chỉ vàng xỏ chơn châu và trăm ngàn thứ 
châu báu trân diệu đẹp lạ xen lẫn trang nghiêm. Bốn phía 
thòng rũ những cái linh báu. Màu sắc, ánh sáng rất mực 
nghiêm lệ. 
Gió công đức tự nhiên thổi động nhẹ. Gió đó điều hòa, 
chẳng lạnh chẳng nóng, ấm mát dịu dàng thổi đến màng 
lưới báu và những cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi 
diệu, thoảng phất muôn thứ hương thơm công đức ấm áp. 
Ai được nghe thì phiền não trần lao tự nhiên chẳng phát 
khởi. Gió chạm đến thân thì đều được khoái lạc như Tỳ 
Kheo nhập diệt tận định. 
Lại gió thổi hoa rơi khắp mọi nơi trong nước ấy, theo 
màu hoa có thứ lớp chẳng tạp loạn. Những hoa ấy mềm dịu 
chói sáng hơi thơm ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa lún 
xuống bốn tấc, vừa dở chân hoa trở lại như cũ. Việc dùng 
của hoa đã xong, đất tự nứt ra, hoa theo đó ẩn mất sạch hết 
không còn sót. Tùy theo thời tiết, gió thổi rải hoa rơi trải 
mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy. 
Lại có những hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi đóa 
hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh, vô lượng màu sắc chói 
sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc trắng ánh sáng 
trắng, vàng đỏ tím huyền, màu nào sáng ấy rực rỡ hơn cả 


46 
mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi đóa hoa sen phát ra ba mươi 
sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng hiện ra ba 
mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân màu vàng tử kim đủ 
những tướng tốt. Mỗi đức Phật lại phóng trăm ngàn ánh 
sáng khắp vì mười phương mà nói pháp vi diệu. Chư Phật 
ấy đều gầy dựng vô lượng chúng sanh ở nơi chánh đạo. 
Nầy A Nan! Có chúng sanh nào, sanh về cõi nước An 
Lạc ấy thì đều ở bực chánh định tụ cả.
Tại sao vậy? 
Vì nước ấy không có hạng tà tụ và bất định tụ. 
Hằng sa chư Phật Như Lai mười phương đồng khen 
ngợi oai thần công đức bất khả tư nghị của đức Vô Lượng 
Thọ Phật. 
Có những chúng sanh nghe danh hiệu đức Phật ấy, 
lòng tin vui mừng nhẫn đến phát một niệm chí tâm hồi 
hướng nguyện cầu sanh về nước ấy, thì liền được vãng 
sanh ở bực bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch 
và phỉ báng chánh pháp. 
Nầy A Nan! Chúng sanh ở mười phương, những người 
và chư Thiên nguyện cầu sanh về nước an lạc của đức Vô 
Lượng Thọ Phật có ba hạng: 

tải về 0.62 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương