P.T.T. Hà và
nnk. / Tạ
p chí Khoa họ
c Đ
HQGHN: Các Khoa họ
c Trái đấ
t và Môi trườ
ng, Tậ
p 32, Số
1S (2016) 384-391
387
7. Hệ
côn trùng
Những kết quả công bố gần đây và kết quả
khảo sát tại khu vực cho thấy có 469 loài côn
trùng, thuộc 331 giống, 84 họ, 11 bộ Côn trùng
có mặt trong vùng nghiên cứu. Vùng phân bố
tương đối rộng, từ các hệ sinh thái rừng tới các
trảng cây bụi, trảng cỏ và diện tích cây trồng
nông nghiệp. Trong số đó có một số bộ có
thành phần loài phong phú như: Cánh cứng
Coeloptera 176 loài, Cánh nửa 115 loài, Cánh
thẳng 56 loài, Cánh vẩy Lepidoptera 45 loài. Hệ
côn trùng là thành phần đáng lưu ý nhất trong
hệ sinh thái nông nghiệp vì nó ảnh hưởng lớn
tới năng xuất và dịch hại cây trồng.
3.3. Nhữ
ng đặ
c trư
ng cơ
bả
n và tính đ
a dạ
ng các
hệ
sinh thái huyệ
n Lươ
ng Sơ
n
A. Các hệ sinh thái tự nhiên
1. Hệ
sinh thái rừ
ng rậ
m nhiệ
t đớ
i gió mùa
thứ
sinh trên vùng đồ
i núi thấ
p (<600m),
thườ
ng xanh cây lá rộ
ng, đấ
t đượ
c hình thành
từ
các loạ
i đ
á mẹ
khác nhau (trừ
đ
á Vôi)
Phân bố chủ yếu vùng phía Bắc huyện, nơi
gần tiếp giáp núi Ba Vì. Đây là hệ sinh thái độc
đ
áo nhất, phát triển dưới điều kiện khí hậu nhiệt
đớ
i gió mùa nội chí tuyến, trên đất feralit đỏ
vàng.
Tầng cây gỗ ưu thế sinh thái khá liên tục,
dao động xung quanh độ cao khoảng 25m,
đườ
ng kính thân trung bình 35cm – 60cm, mật
độ
cá thể tương đối cao khoảng 200 -
300cây/ha, độ phủ tán 50%. Các loài ưu thế
thống kê trong khu vực gồm Cà Lồ Ba Vì
Caryodaphnopsis baviensis,
Giổi Michelia
mediocris
, Sấu Dracontomelon duperreanum,
Sến Madhuca. Tầng cây gỗ dưới tán khá dày,
độ
phủ tán trên 40%, mật độ cá thể khoảng 300
- 400cây/ha, chiều cao quần xã trung bình 10m
- 17m, đường kính thân trung bình 25cm,
đườ
ng kính tán trung bình 6m. Những loài ưu
thế trong khu vực nghiên cứu gồm, Trâm
Syzygium sp.,
Mán đỉa Archidendron clypearia,
Ba đậu Croton variegatum, Vàng anh Saraca
dives
.
Tầng cây bụi khá thưa thớt, chủ yếu là các
loài cây gỗ tái sinh thuộc các tầng trên. Chiều
cao trung bình 2m - 5m, các loài ưu thế và
thường gặp trong tầng này thuộc các chi Bứa
Garcinia,
Sồi Lithocarpus, Đa Ficus, Ba gạc
Evodia,
Mán đỉa Archidendron, Cơm nguội
Ardisia,
Hoắc quang Wendlandia, Trôm
Sterculia
.
Tầng cỏ - khuyết thực vật (thân thảo) khá
phong phú về loài nhưng mật độ cá thể thưa
thớt, thành phần khuyết thực vật chủ yếu gồm
các đại diện thuộc các họ Quyển bá
Selaginellaceae, Móng châu Angiopteridaceae,
Bòng bong Schizeaceae, Họ Tế Gleicheniaceae,
Họ Ráng Polypodiaceae.
Gian tầng gồm các loài dây leo thuộc các họ
Đậ
u Fabaceae, Thiên lý Asclepiadaceae, Bầu bí
Cucurbitaceae, Họ Nho Vitaceae, Họ Củ Nâu
Dioscoreaceae, Họ Kim cang Smilacaceae. Các
loài phụ sinh đa dạng phong phú, chủ yếu gồm
các cá thể thuộc các họ Tổ diểu Aspleniaceae,
Tầm gửi Loranthaceae, Lan Orchidaceae.
Trong hệ sinh thái này, dưới các tán rừng là
nơi cư trú của các quần cư động vật rất phong
phú về thành phần loài, nhưng khá nghèo về số
lượng cá thể. Nơi đây có sự hiện diện tới 80%
số loài động vật cạn trong khu vực. Cấu trúc
lưới thức ăn đa dạng, tương đối ổn định.
Dẫn xuất từ kiểu hệ sinh thái ít bị tác động
ở
trên, trải qua sự tàn phá hoặc khai thác quá
mức hoặc do canh tác nương rẫy và hoang hóa
là hệ sinh thái rừng thứ sinh bị tác động rất
mạnh. Cấu trúc quần xã chỉ có 1 tầng cây gỗ
chiều cao 12m - 15m, độ phủ tán khoảng 70%,
mật độ cá thể 500 - 800cây/ha, với các loài Sau
sau
Chia sẻ với bạn bè của bạn: