độ lắc 120 vòng/phút trong 24 h.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 37 (2015): 8-15
10
Xác định mật độ vi khuẩn
: Dịch vi khuẩn sau
khi nuôi cấy được đo độ đục bằng UV
spectrophotometer ở bước sóng 625 nm, với giá trị
OD trong khoảng 0,08-0,1. Mật độ vi khuẩn trong
dung dịch nuôi được tính toán dựa vào độ đục
chuẩn 0,5 McFarland (McFarland và ctv, 1907)
tương ứng với mật độ 1,5x10
8
vi khuẩn/ml. Huyền
phù dịch vi khuẩn sau khi pha loãng có số lượng vi
khuẩn 10
8
vi khuẩn/ml được sử dụng cho thí
nghiệm tiếp theo.
2.4.2 Thí nghiệm khả năng ức chế vi khuẩn
Salmonella typhi của chitosan và nanochitosan
(Andrews, 2001)
Trong thí nghiệm này, mỗi ống nghiệm chứa
5,0 mL môi trường dung dịch peptone đệm được
hấp khử trùng trong 15 phút ở 121°C, sau đó được
để nguội về nhiệt độ phòng.
Dãy thí nghiệm 1: 5 mg chitosan hoặc 5 mg
nanochitosan được hòa tan trong 5 ml dung dịch
acid acetic 0.25 % sao cho nồng độ của dung dịch
chứa chitosan hay nanochitosan là 1 mg/ml.
Chitosan được hòa tan hoàn toàn trong dung dịch,
trong khi đó nanochitosan không tan và được lắc
đều để các hạt phân tán tốt trong dung dịch trước
khi cho vào môi trường. Dung dịch đối chứng là
dung dịch acid acetic 0,25 %. Giá trị pH của môi
trường có chứa dịch đối chứng là 4,90. Lô thí
nghiệm được lặp lại 2 lần.
Dãy thí nghiệm 2: 5 mg chitosan hoặc 5 mg
nanochitosan được hòa tan trong 5 ml dung dịch
acid acetic 0,0625 % sao cho nồng độ của dung
dịch chứa chitosan hay nanochitosan là 1 mg/ml.
Dung dịch đối chứng là dung dịch acid acetic
0,0625 %. Giá trị pH của môi trường đối chứng là
5,35. Lô thí nghiệm tương tự cũng được lặp lại
2 lần.
Quá trình được tiến hành như sau: Hút 5 ml
mỗi dung dịch chitosan/nanochitosan (nồng độ
1 mg/ml) vào ống nghiệm chứa môi trường
nuôi đã được chuẩn bị sẵn, lắc đều và tiếp tục
hút 5 ml dung dịch ống trước đó vào ống
nghiệm tiếp theo. Nồng độ cuối cùng của dung
dịch chitosan/nanochitosan lần lượt là 0,5; 0,25;
0,125 mg/ml. Ngoài ra, các ống nghiệm chứa môi
trường có dung dịch acid acetic được sử dụng làm
đối chứng. Sau đó, dùng micropipet hút 50 µL của
dung dịch huyền phù vi khuẩn có số lượng 10
8
vi
khuẩn/ml cho vào từng ống nghiệm chứa các nồng
độ đã chuẩn bị như trên. Các ống nghiệm được lắc
đều và nuôi trong bồn ủ nhiệt với nhiệt độ 37°C,
tốc độ lắc 120 vòng/phút trong 24 giờ. Sau 24 h,
dung dịch vi khuẩn ở các ống nghiệm được cấy
trên đĩa thạch sử dụng môi trường nuôi cấy đặc
hiệu cho vi khuẩn Salmonella typhi là Xylose
lysine deoxycholate (XLD) agar (Nye và ctv,
2002). Các đĩa thạch sau đó được ủ ở 37 °C và sự
phát triển của vi khuẩn được quan sát sau 24 h để
xác định khả năng kháng khuẩn của các chất
nghiên cứu.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: