Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Số chuyên đề: Thủy sản (2014)(1): 36-41
38
liệu của các cơ sở chủ yếu được mua từ bên ngoài
(92,3%) nên không chủ động được nguồn nguyên
liệu và khó kiểm soát vấn đề an toàn vệ sinh thực
phẩm. Thị trường chủ yếu của các cơ sở là các chợ
(92,3%), siêu thị (15,3%), xuất khẩu chỉ có 7,7%.
3.1.2 Quy trình sản xuất khô và mắm cá lóc
của các cơ sở
a. Quy trình chung sản xuất khô cá lóc của
các cơ sở
Quy trình chung sản xuất khô cá lóc của 4 cơ sở
được thực hiện theo sơ đồ sau: Nguyên liệu
Sơ
chế
Rửa Ướp muối - Ủ Rửa Làm lạnh
Ướp gia vị Phơi Thành Phẩm Bảo
quản.
Nguyên liệu cá lóc còn sống, không bị bệnh,
đạt trọng lượng chế biến, cá phải được xử lý ngay
sau khi nhập về. Nguyên liệu được xử lý bỏ đầu,
vây, vảy, nội tạng, xẻ lưng và loại bỏ xương. Cá
sau xử lý, rửa sạch, để ráo và ướp muối. Ướp muối
với tỷ lệ 5-7% so với lượng cá, muối được xát đều
vào hai mặt, bụng và lưng của cá, thời gian ướp
muối 30 phút, rửa lại 2 lần với nước sạch, để ráo.
Cá sau khi để ráo cho vào các túi PE (5 kg/túi)
buộc kín miệng cho vào thùng cách nhiệt ủ lạnh,
thời gian ủ lạnh là 12 giờ. Đối với khô cá lóc ngọt,
cá sau khi ủ lạnh được ướp gia vị với tỷ lệ đường
5%, tỏi 0,1%, bột ngọt 1,7%, tiêu 0,05 kg/6 kg cá
(thành phần và tỷ lệ gia vị có thể thay đổi theo yêu
cầu khách hàng). Thời gian ướp gia vị là 1 giờ. Cá
sau khi ngấm đều gia vị được xếp đều lên giàn
phơi, mặt da tiếp xúc với giàn phơi. Cá được phơi
3-4 nắng (8-9 giờ/nắng). Khô thành phẩm có thể
được xuất ngay nếu có đơn đặt hàng hoặc bảo quản
đông, thời gian bảo quản 2-6 tháng.
b. Quy trình chung chế biến mắm cá lóc của
các cơ sở
Quy trình chung chế biến mắm cá lóc của 9 cơ
sở được thực hiện theo sơ đồ sau: Nguyên liệu
Sơ chế
Rửa Ướp muối Gài nén 1 Rửa
Thính Gài nén 2 Chao đường Thành
phẩm.
Nguyên liệu cá lóc còn sống, không bị bệnh,
đạt trọng lượng chế biến, cá phải được xử lý ngay
sau khi nhập về. Nguyên liệu được xử lý để loại bỏ
vây, vảy, nội tạng, đầu. Cá sau xử lý được rửa và
để ráo trước khi muối. Tỷ lệ muối 28-30% hoặc
20-22% tùy theo cơ sở so với trọng lượng cá. Cá
được ướp đều muối để khoảng 1-2 ngày, tiến hành
gài nén, đảm bảo cho cá được nén chặt, cơ thịt cá
chặt chẽ thì thời gian gài nén từ 2-3,5 tháng, tuy
nhiên có cơ sở chỉ gài nén khoảng 20-30 ngày để
rút ngắn thời gian chế biến. Cá được rửa lại sau
quá trình gài nén, để ráo trước khi thính, lượng
thính so với cá khoảng 5-7%. Cá sau khi ướp thính
được 1-2 ngày, bổ sung thêm nước bổi hoặc nước
mắm vừa ngập và tiếp tục gài nén khoảng 2-3
tháng. Sau thời gian gài nén 2, cá được chao
đường. Đường có thể dùng đường cát, đường thốt
nốt tỷ lệ khoảng 5-20% so với cá, thời
gian chao
đường từ 1 đến 2 tuần. Thời gian bảo quản của sản
phẩm khoảng 6 tháng đến 1 năm.
3.1.3 Chất lượng và an toàn vệ sinh thực
phẩm của các cơ sở sản xuất khô và mắm cá lóc
Theo quyết định số 53/2009/QĐ-UBND tỉnh
An Giang qui định về chỉ tiêu và mức giới hạn an
toàn thực phẩm đối với sản phẩm khô và mắm cá
thì nguyên liệu phải được thu mua trong vùng được
kiểm soát về kháng sinh, kim loại, hóa chất. Tuy
nhiên, phần lớn các cơ sở khô và mắm cá lóc mua
nguyên liệu thông qua các thương lái hay những
nhà bán lẻ trong vùng nên khó kiểm soát về kháng
sinh, kim loại và hóa chất. Trong tổng số 13 cơ sở
khảo sát, có 2/4 cơ sở sản xuất khô (50%) và 2/9 cơ
sở sản xuất mắm (22,2%) có các biện pháp kiểm
soát chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào, có 2/4
cơ sở sản xuất khô (50%) và 7/9 cơ sở sản xuất
mắm (77,8%) ít hoặc không quan tâm đến vấn
đề này.
Cũng theo quyết định số 53/2009/QĐ-UBND
tỉnh An Giang yêu cầu bảo quản và vận chuyển sản
phẩm khô và mắm phải được bảo quản tại nơi khô,
ráo, sạch và riêng theo từng loại sản phẩm, nơi bảo
quản không có mùi lạ ngăn được côn trùng, động
vật gây hại và được vận chuyển bằng các phương
tiện sạch, kín, không có mùi lạ. Trong tổng số 13
cơ sở khảo sát, có 1/4 cơ sở sản xuất khô (25%) và
3/9 cơ sở sản xuất mắm (33,3%) có nơi bao gói
sản phẩm tách riêng với nơi sản xuất và sản phẩm
được bao gói, có 3/4 cơ sở sản xuất khô (75%%) và
6/9 cơ sở sản xuất mắm (77,8%) không có các
phòng đóng gói riêng hoặc sản phẩm không được
đóng gói.
Về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đối
với sản phẩm khô cá lóc có thể làm bằng cách phơi
nắng hoặc bằng cách làm khô nhân tạo (sấy), trong
quá trình phơi nắng, thực hành xử lý tốt để tránh
hoặc giảm thiểu sự nhiễm bẩn cho sản phẩm là rất
cần thiết. Cần áp dụng thực hành vệ sinh tốt, để
ngăn ngừa số lượng vi trùng tích tụ ở khu vực xử
lý, nhằm giảm thiểu số lượng côn trùng ban đầu có
trên sản phẩm (TCVN 7416: 2004). Tuy nhiên, có
đến 3/4 cơ sở sản xuất khô (75%) xử lý nguyên liệu
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Số chuyên đề: Thủy sản (2014)(1): 36-41
39
dưới nền xi măng, chỉ có 1/4 cơ sở (25%) xử lý
nguyên liệu trên bàn, sản xuất còn phụ thuộc nhiều
vào thời tiết, khô được phơi ngoài trời và chưa có
biện pháp che chắn bụi, ruồi và động vật gây hại
cho sản phẩm, có đến 3/4 cơ sở sản xuất khô (75%)
không bao gói sản phẩm ngay sau khi thành phẩm,
chỉ có 1/4 cơ sở (25%) có tiến hành bao gói sản
phẩm sau khi thành phẩm.
Mắm là loại cá lên men, là thực phẩm tốt cho
những người kém hấp thu chất dinh dưỡng, tầm
quan trọng về giá trị dinh dưỡng của sản phẩm này
được nghiên cứu bởi Amano
et al. (1962) và
Suwanik (1979). Chất lượng sản phẩm mắm cá lóc
từ cá đồng tốt hơn cá nuôi (Le
Xuan Sinh et al.,
2014). Tuy nhiên, do cá lóc đồng hiện nay rất hiếm
và giá thành cao nên có đến 100 % cơ sở sản xuất
mắm cá lóc từ cá nuôi (cá lóc đầu nhím). Nguyễn
Trọng Cẩn (1990) cũng báo cáo rằng lượng muối
sử dụng, kỹ thuật ướp muối, thính và chao đường
có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm
mắm. Tác giả cũng cho rằng lượng muối sử dụng
và thời gian gài nén có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng của sản phẩm. Thời gian gài nén lâu thì sản
phẩm có cấu trúc săn chắc, nhưng do vấn đề lợi
nhuận các cơ sở giảm lượng muối và thời gian gài
nén để rút ngắn thời gian chế biến, điều này làm
cho chất lượng của sản phẩm giảm xuống. Có 7/9
cơ sở (77,8%) bổ sung 28-30% muối và có 2/9 cơ
sở (22,2%) bổ sung 20-22% muối so với khối
lượng cá. Có 4/9 cơ sở sản xuất mắm (44,4%) gài
nén từ 3-3,5 tháng, có 3/9 cơ sở (33,3%) gài nén từ
2-3 tháng và 2/9 (22,2%) cơ sở gài nén từ 20-30
ngày. Thính tạo mùi thơm cho sản phẩm, tuy nhiên
lượng thính và kỹ thuật rang thính ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng sản phẩm. Cụ thể, lượng thính
quá nhiều và thời gian rang dài sản phẩm sẽ bị
đắng, lượng thính quá ít và thời gian rang ngắn sản
phẩm không có mùi thơm. Chao đường để tạo vị
cho sản phẩm, tuy nhiên để tăng lợi nhuận một số
cơ sở tăng lượng đường làm ảnh hưởng đến chất
lượng của sản phẩm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: