MỤc lục phầN 1 20 MỞ ĐẦU 20 chưƠng 1 21 giới thiệu chung về ĐỒ ÁN 21 Chương 1 nêu ra tính cấp thiết của đồ án, từ đó xác định mục tiêu và phạm VI nghiên cứu, xác định các phương pháp, công cụ cần sử dụng tới khi làm đồ án


Xu thế biến động đất bồi cửa sông Đáy



tải về 1.13 Mb.
trang12/14
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích1.13 Mb.
#3007
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Xu thế biến động đất bồi cửa sông Đáy

Khu vực Kim Sơn nằm trên nền tân kiến tạo thuộc loại nâng yếu, tuy nhiên trong đệ tứ bị võng hạ với tốc độ 0,05 – 0,06 mm/năm (Nguyễn Cẩn, 1989). Mép bãi bồi tụ nhanh về phía Tây Nam và xói lở về phía Đông Nam. Phần bãi nổi trên Mực nước trung bình liên tục bồi lấn, mở rộng về phía biển, với tốc độ lớn 80 – 100 m/năm, xu thế chung ở đây là bồi tụ mạnh trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai gần. Ở đây tốc độ triều lên lớn hơn tốc độ triều rút, thuận lợi cho bồi tụ bãi. Tuy nhiên, các đặc điểm của bãi nhất là phần bãi thấp về hình thái là rất biến động. Sự phát triển bãi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự thay đổi hình dạng và hướng đổ của cửa sông Đáy có vai trò lớn mà một phần là do hoạt động nội lực của sông. Hàng năm có khoảng 30.106 tấn bồi tích và 32 tỷ m3 nước vận chuyển qua cửa sông Đáy đổ ra biển, về phía mùa mưa lượng bồi tích này phân tán xa bờ 12 km. Ngoài ra hệ thống đê do con người tạo ra có ảnh hưởng lớn đến đường bờ tự nhiên và xu hướng phát triển bãi bồi. Phía cửa Càn mép bãi mở rộng nhanh nhưng phần nổi cao của bãi lại bồi tụ chậm, có thể còn bị bào mòn (chỗ hai đoạn đê vỡ), chính do sự bồi tụ nhanh ở mũi đất cao phía cửa Đáy hiện nay và đường đê đắp lấn nhanh dạng mũi ở đây đã cản dòng bồi tích sông Đáy sang phía tây bãi. Xu thế hiện nay có thể tạo cho phía Tây bãi bồi trở thành trũng thấp.

Dự đoán trong một khoảng chu kỳ 30 – 40 năm nữa, khi cửa Đáy lại mở về phía Đông Bắc, cồn “Mờ” sẽ nổi cao, cửa chính hiện nay nông, hẹp lại thì khu phía Tây bãi bồi mới nổi cao trên Mực nước trung bình. Với xu thế và tốc độ bồi lấn như hiện nay, dự kiến khoảng 15 -20 năm nữa, đường MBTB sẽ mở rộng đến vị trí đường 1,1 m/0m hải đồ hiện nay và diện tích bãi bồi nổi cao trên MBTB lúc đó sẽ gần 2500 ha (0m hải đồ) tiếp tục mở rộng về phía Tây Nam, cồn “Mờ” nhô cao trên mức 0m hải đồ.

Như vậy, bãi bồi ngập triều vùng biển Kim Sơn có điều kiện bồi tụ thuận lợi do địa hình ngầm nông, bãi thoải, khu vực này có tốc độ bồi tụ nhanh và ổn định nhất dải ven biển Đồng bằng Bắc bộ, tốc độ bồi tụ gần tương đương với tốc độ quai đê lấn biển. Các hoạt động dân sinh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển vùng triều, đặc biệt trong thế kỷ qua việc quai đê lấn biển đã đẩy nhanh đường bờ ra phía biển, tạo ra các cung lồi nhô ra biển làm thay đổi hẳn hình dạng bờ và cấu trúc dòng bồi tích ở ven bờ sông Đáy.

CHƯƠNG 9

TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG CÁC LOẠI HÌNH TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN BÃI BỒI VEN BIỂN KIM SƠN

Bãi bồi Kim Sơn ẩn chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Việc nghiên cứu đánh giá đầy đủ các nguồn tài nguyên và thực trạng sử dụng các loại hình tài nguyên đó có ý nghiã quan trọng là cơ sở quy hoạch quản lý và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý các dạng tài nguyên thiên nhiên đã có. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đồ án chỉ tập trung xem xét 5 dạng tài nguyên thiên nhiên quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của vùng bãi bồi Kim Sơn, đó là : tài nguyên khí hậu, đất, nước, khoáng sản và tài nguyên sinh vật.

9.1 Tiềm năng các loại hình tài nguyên thiên nhiên bãi bồi ven biển Kim Sơn

9.1.1 Tài nguyên khí hậu

Trong những năm gần đây, vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề hàng đầu được đặt ra trong hầu hết các dự án phát triển của bất cứ lãnh thổ nào. Chính vì vậy, hướng nghiên cứu đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của các vùng lãnh thổ khác nhau ngày càng được chú trọng và phát triển ở nước ta. Việc xem xét điều kiện khí hậu nhất là sinh khí hậu như một tài nguyên phục vụ cho mục đích đánh giá tổng hợp, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy hoạch các vùng lãnh thổ khác nhau mang tính cấp thiết. Nghiên cứu khí hậu có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng khi xác định và bố trí cơ cấu cây trồng nông, lâm nghiệp hợp lý trên cơ sở đánh giá mức độ phù hợp của điều kiện sinh khí hậu đối với nhu cầu sinh lý, sinh thái của các loại cây trồng vật nuôi.

Khí hậu huyện Kim Sơn thuộc loại sinh khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, có mùa lạnh dài 2 tháng, mưa vừa, mùa khô trung bình. Chi tiết được nêu trong chương 2. Với loại hình khí hậu này, vùng bãi bồi Kim Sơn khá thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ hải sản cũng như tổ chức gieo trồng lương thực, thực phẩm trên cơ sở quai đê lấn biển cải tạo đất.

9.1.2 Tài nguyên đất

Bãi bồi ven biển là những vùng đất mới, luôn luôn biến động dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và con người. Đây là vùng đất tiềm năng của huyện cũng như tỉnh Ninh Bình, nếu biết khai thác hợp lý sẽ mang lại giá trị kinh tế vô cùng to lớn. Nhưng nếu khai thác không hợp lý, không phù hợp với quy luật tự nhiên thì sẽ để lại hậu quả và tác hại to lớn.

Đất bồi ven biển Kim Sơn chủ yếu do phù sa sông Hồng mang lại nên rất màu mỡ. Đất có bản chất nâu tươi, có phản ứng trung tính hoặc ít chua, hàm lượng Ca++ cao, có sự phối hợp hài hoà giữa các cấp hạt, tỷ lệ sét 20 ÷ 30% cùng với tỷ lệ limon thích hợp chiếm khoảng 50% làm cho tỷ lệ cấu tượng viên bền trong nước rất cao (75%). Đây là loại đất thành phần cơ giới thịt trung bình, pH trung tính 6,5 ÷ 6,7, giàu cation kiềm thổ, khả năng trao đổi cation 14 ÷ 25 lđl/100g đất, hàm lượng hữu cơ trung bình 1,3 ÷ 2, trung bình đạt 0,12% đấu giầu lân, kali tổng số và dễ tiêu, độ ẩm trung bình đạt trên dưới 18% (sức giữ nước tối đa từ 32 ÷ 35 %)

9.1.3 Tài nguyên khoáng sản

Tại khu vực ven biển Kim Sơn hầu như không có tài nguyên khoáng sản, chỉ có trong diện tích sình lầy như vùng nông trường Bình Minh, vật chất hữu cơ cũng như điều kiện địa chất - địa mạo thích hợp để có thể tạo thành than bùn, tuy nhiên do tác động của con người nên than bùn đã không thành tạo được.



9.1.4 Tài nguyên nước mặt

a. Đặc điểm nguồn nước

Vùng ven biển Kim Sơn có đặc điểm quan trọng là lượng nước nhận được chủ yếu là từ thượng nguồn đưa về còn nguồn nước tại chỗ không đáng kể. Tổng lượng mưa năm tại đây khoảng 386 triệu m3 nước

Mùa kiệt nước trong sông rất ít, nguồn nước được duy trì chủ yếu do nước ngầm cung cấp, nên tạo điều kiện cho nước triều xâm nhập vào sâu trong đất liền. Vì vậy vùng cửa sông ven biển mùa kiệt chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn biển mạnh hơn thuỷ văn sông. Các cửa sông là nơi gặp gỡ giữa nước sông và nước biển, sự tương tác động lực giữa nước sông và nước biển diễn ra liên tục theo chu kỳ triều. Tuy lưu lượng dòng triều không trực tiếp sử dụng được cho nông nghiệp, dân sinh và công nghiệp nhưng dòng triều đã tạo ra thế nước để các công trình thuỷ lợi có thể hớt phần nước ngọt phía trên của dòng triều để đưa vào sử dụng (khi triều lên) và tiêu nước khi triều rút. Đồng thời thế nước thuỷ triều cũng là một yếu tố quan trọng trong giao thông thuỷ ở vùng cửa sông ven biển. Vì vậy có thể xem thuỷ triều là một dạng tài nguyên nước mặt.

Qua phân tích trên có thể thấy, tài nguyên nước mặt của vùng rất dồi dào tuy nhiên bị nhiễm mặn và chiếm một tỷ lệ khá lớn. Nguồn nước ngọt cung cấp cho sản xuất tưới tiêu và sinh hoạt gặp nhiều khó khăn.

Nguồn nước mặt ở đây rất thích hợp cho nuôi trồng thủy - hải sản có thể coi là ngành kinh tế mũi nhọn để phát triển kinh tế tại vùng. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với việc sử dụng có hiệu quả của nguồn nước mặt là hạn chế tối đa các hoạt động làm gây ô nhiễm nguồn nước của các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…


  1. Môi trường nước

Môi trường nước mưa

Nước mưa có độ khoáng dao động từ 20 ÷ 160 mg/l. Theo các tài liệu phân tích thành phần nước mưa của Nguyễn Toàn Thắng, Bùi Đạt Trâm thì thành phần ion chủ yếu của nước mưa bao gồm: Cl-, SO4-2, HCO3-, NO3-, Na+, K+, Ca+2, Mg+2

Nhìn chung nguồn nước mưa ở vùng ven biển Kim Sơn chưa bị nhiễm bẩn, là nguồn nước có thể sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt.

Môi trường nước mặt

Môi trường nước ven biển Kim Sơn có thành phần hoá học rất đa dạng do nó không những phụ thuộc vào thành phần nước sông, nước biển mà còn phụ thuộc vào cả chế độ dòng chảy trong sông và chế độ thuỷ triều vùng biển. Mặt khác sự tương tác giữa nước mặn và nước ngọt đã hình thành những barie địa hoá làm cho các thành phần của nước vùng cửa sông bị biến đổi. Đồng thời sự hoạt động kinh tế mạnh mẽ của con người ở vùng cửa sông đã gây ra những tác động ảnh hưởng đến môi trường nguồn nước.

Qua các tài liệu khảo sát của Phân viện Tài nguyên nước và Môi trường, Viện Địa lý thực hiện có thể đánh giá về chất lượng nước dải ven biển như sau:

* Nhiệt độ:

Nhiệt độ là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến các quá trình hoá lý xảy ra trong nước, nó ảnh hưởng lớn đến đời sống các vi sinh vật, vi khuẩn trong nước. Nhiệt độ của nước thay đổi phụ thuộc vào nhiệt độ không khí.

Vùng ven biển Kim Sơn nằm trong khu vực gió mùa có mùa đông lạnh, sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè rõ rệt.

Nhiệt độ nước về mùa đông có xu thế tăng dần từ trong sông ra ngoài khơi từ 18 – 210 vì thường mùa đông nhiệt độ nước trong sông thấp hơn nhiệt độ nước biển. Gradient nhiệt độ nước trong sông thấp hơn nhiệt độ nước biển. Gradient nhiệt độ đạt 0,10 theo xu thế nhiệt độ giảm dần trong mùa đông khi tiến sâu vào trong sông và đạt 180 tại ngưỡng cửa sông.

Mùa hè nhiệt độ nước dao động từ 27 ÷ 290 thay đổi theo xu thế ngược lại: giảm dần từ trong sông ra biển, do mùa hè nước biển có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ nước sông. Sự chênh lệch này là không đáng kể .

* Độ đục nước biển:

Độ đục nước biển biểu hiện mức độ ngăn trở ánh sáng xuyên qua do các chất lơ lửng gây ra. Nước có độ đục lớn chứng tỏ có chứa nhiều cặn bẩn. Độ đục làm giảm khả năng quang hoá trong nước, dẫn đến các tầng sâu bên dưới có hiện tượng yếm khí sinh ra các chất khí độc hại có ảnh hưởng xấu đến môi trường.

Độ đục vùng bãi biển cửa sông Đáy khá lớn, thay đổi theo mùa và phân bố phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố

Mùa đông:

Lòng dẫn cửa sông độ đục, dao động từ 100 ÷ 140 mg/l theo quy luật tăng dần về phí biển cho tới ngưỡng cửa sông. Tại ngưỡng cửa sông độ đục có thể đạt đến giá trị lớn hơn 150 mg/l.

Vùng cửa sông từ ngưỡng cửa sông đến độ sâu 5 m về phía biển độ đục giảm đi một cách rõ rệt. Từ độ sâu 10 m trở ra độ đục thường nhỏ hơn 100 mg/l.

Mùa hè:

Mùa hè độ đục thay đổi rất phức tạp, dao động từ 100 ÷ 550 mg/l

Do lượng nước và lượng phù sa mùa này trong sông đưa ra lớn nên dòng nước đục đưa ra khá xa, nhất là khi thuỷ triều xuống dòng phù sa ra tới trên 10 km. Tại đây độ đục có thể đạt tới 150 mg/l, có khi lớn hơn. Ngoài độ sâu 10 m độ đục giảm đi đáng kể nhưng cũng có nơi đạt được 100 mg/l.

* Độ pH


Độ pH là yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và giới hạn sự phát triển của sinh vật. Cần xác định giới hạn pH trong đó sinh vật có thể phát triển. Trong lĩnh vực cấp nước, pH là yếu tố phải xem xét trong quá trình đông tụ hoá học, sát trùng làm mềm nước và kiểm soát ăn mòn.

Độ pH của khu vực nghiên cứu biến thiên từ 6,5 ÷ 8,5 thuộc loại kiềm yếu là khoảng thích hợp cho các sinh vật. Nói chung pH trong khu vực nằm trong giới hạn cho phép.

* Độ mặn

Vùng nghiên cứu chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều của biển nên nước bị nhiễm mặn. Độ mặn của vùng cửa sông có xu thế giảm dần từ ngoài biển vào sâu trong cửa sông, và thay đổi rõ rệt theo mùa.

Mùa kiệt nước sông ít, thuỷ triều vào sâu trong sông làm độ nhiễm mặn của nước sông tăng. Mùa lũ nước chảy mạnh đẩy nước biển ra cửa sông, độ mặn sông giảm đi đáng kể. Tại cửa sông Đáy độ mặn đo được vào mùa đông thay đổi từ 0,06 ÷ 9,4 %0 , tăng dần từ trong sông ra biển.

* Nồng độ oxy hoà tan (DO), nhu cầu oxy sinh hoá (BOD) và nhu cầu oxy hoá học ( COD)

Tất cả các sinh vật đều phụ thuộc vào oxy dưới dạng nào đó để duy trì các quá trình trao đổi chất để sinh sản và phát triển. DO là yếu tố quyết định các quá trình phân huỷ sinh học, các chất ô nhiễm diễn ra trong điều kiện háo khí hay yếm khí. Nếu phân huỷ do các vi sinh vật yếm khí thực hiện thì sẽ tạo ra các sản phẩm có tính độc hại. Còn sự phân huỷ do vi sinh háo khí thực hiện thì sản phẩm tạo ra thường không độc hại. Muốn sinh vật háo khí chiếm ưu thế chiếm ưu thế trong hoạt động phân huỷ thì phải tạo được điều kiện háo khí.

Nhu cầu oxy sinh hoá (BOD) là lượng oxy cần thiết để vi khuẩn phân huỷ các chất hữu cơ trong điều kiện háo khí. Do đó lượng oxy tiêu hao trong quá trình oxy hoá sinh học và lượng chất hữu cơ có mối liên hệ chặt chẽ, vì vậy BOD là một chỉ tiêu đánh giá ô nhiễm môi trường nước, nó thể hiện cường độ ô nhiễm của các chất thải sinh hoạt và công nghiệp được xả vào nguồn nước tiếp nhận nước thải .

Nhu cầu oxy hoá học (COD) là lượng oxy cần thiết để oxy hoá hoàn toàn chất hữu cơ bẳng chất ôxy hoá mạnh tính bằng mg/l. Do đó COD cũng là một yếu tố để đánh giá ô nhiễm môi trường nước

- Nồng độ oxy hoà tan: hàm lượng oxy hoà tan trong nước thay đổi rất mạnh mẽ theo thời gian trong năm, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là nhiệt độ nước. Mùa đông, nhiệt độ thấp, hàm lượng oxy hoà tan trong nước đạt mức trung bình DO = 3,3 ÷ 14,1 mg/l. Mùa lũ lượng oxy hoà tan đạt mức thấp nhất, trung bình từ 0,6 ÷ 2,5 mg/l. Do vào mùa này lượng phù sa lơ lửng trong nước lớn, hơn nữa khi nhiệt độ tăng quá trình phân huỷ sinh học của các chất ô nhiễm dưới tác dụng của các vi khuẩn háo khí của lớp nước trên mặt hoạt động mạnh làm tiêu hao một lượng lớn oxy hoà tan trong nước.

- Nồng độ BOD5: nồng độ BOD5 nhìn chung có giá trị nhỏ, phần lớn từ 1 ÷ 3,64 mg/l. Nồng độ BOD5 thay đổi theo thời gian trong năm: về mùa lũ, giá trị BOD5 khá lớn tuy nhiên nhỏ hơn so với mùa đông.

- Nồng độ COD : nồng độ COD xác định được thường < 10 mg/l, nằm trong giới hạn cho phép.

* Các thành phần hoá học khác

Bảng 9.1 - Các thành phần hoá học khác trong nước vùng bãi bồi Kim Sơn

Nhóm các cation và anion chủ yếu

Nhóm các yếu tố kim loại nặng

Nhóm các hợp chất hữu cơ

Na+, Mg+2, Ca+2, K+, Cl-,SO4-2, CO3-2 HCO3-,

Fe, Zn, Cu, Al, As, Ag

NH4+


NO3-

NO2-

- Lớn hơn nhiều so với nước sông.

- Mùa lũ nhỏ hơn mua kiệt.

- Nồng độ nhỏ,

- Mùa kiệt có nồng độ lớn hơn

Đảm bảo yêu cầu sử dụng nước



- Mùa kiệt: 0,1 mg/l

- Mùa lũ : 0,27 mg/l

Chưa bị nhiễm bẩn NH4+



- Mùa kiệt: 0 ÷ 0,5 mg/l

- Mùa lũ : 0,03 ÷ 0,32 mg/l

Chưa bị nhiễm bẩn NO3-



- Mùa kiệt: 0 ÷ 0,1 mg/l

- Mùa lũ : 0,028 ÷ 0,1 mg/l

Bắt đầu có dấu hiệu nhiễm bẩn



Tóm lại : Chất lượng nước sông, biển vùng cửa sông Đáy, ven biển Kim Sơn chưa bị ô nhiễm, có đủ điều kiện cung cấp cho các hoạt động, nông, ngư nghiệp, phát triển kinh tế vùng.

9.1.5 Tài nguyên nước ngầm

Trữ lượng khai thác tiềm năng nước ngầm khu vực Kim Sơn, Ninh Bình là 316.055 m3 / ngày.

Tuy nhiên chất lượng nước ngầm tại đây có chất lượng không cao, các giếng khoan sâu vài chục mét phổ biến là loại nước có chất lượng kém. Nước thường có màu vàng phớt, mùi tanh sắt, được lấy từ lớp cát hạt trung bình màu vàng dày 20 ÷ 30 m nằm trên lớp sét gắn kết chặt.

Thành phần hoá học của nước ngầm, lấy mẫu tại nhà khách UBND huyện Kim Sơn, giếng khoan 101 m được biểu diễn bởi công thức Cuôclôp như sau:



Nhìn chung chất lượng nước dưới đất của khu vực Kim Sơn không tốt lắm về tính chất vật lý, hàm lượng sắt hơi cao.



      1. Tài nguyên sinh vật

Thảm thực vật: Gồm 3 loài cây trồng chiếm diện tích chủ yếu là: Vẹt, cói, sậy, ngoài ra bãi triều còn có cỏ ngạn mọc tự nhiên, ô rô, cóc kèn. Vùng trong đê Bình Minh II có cây lấy gỗ: Bạch Đàn, cây ăn quả... (vẹt 800 ha, cói 100 ha...).

Nguồn lợi thủy sản: Gồm có thực vật nổi, có các loại tảo khuê, tảo gấp; động vật nổi có tôm bột, cá bột, lưỡng trúc, chân chèo...; sinh vật đáy và nhuyễn thể có ngao, vọp, sò huyết... Theo kết quả khảo sát cho thấy: Hai loài đặc sản ngao, vọp có phân bố ở bãi triều có độ sâu 0 m hải đồ cho tới 1,5 m trên 0 m hải đồ. Mật độ của vọp có nơi tới 80 con/m2. Nguồn lợi ngao vọp có trữ lượng khá lớn, lại phân bố tập trung thành bãi thuận lợi cho việc khai thác. Tuy nhiên thời gian khai thác được phụ thuộc vào ngày nước thuỷ triều và mùa vụ. Thường thì một tháng chỉ có 6 – 10 ngày (những ngày triều cường) và một năm chỉ có 6 tháng là khai thác thuận

Riêng tôm cá giống gồm có: Tôm rảo, tôm moi, tôm rui, tôm càng... mùa mưa có 36,5 con/m3 hàng năm có 150 ngày có thể mở cống lấy giống tôm, năng suất tôm rảo khai thác tự nhiên100-120 kg/ha/năm. Ngoài tôm còn có cua rèm năng suất tự nhiên 30 - 50 kg/ha, cá giống có bống trắng, cá trích, cá cơm... ngoài ra còn có cá bớp xuất hiện tương đối nhiều. Vùng đất bùn, cát còn có con ngao và vọp có trữ lượng lớn phân bổ ở bãi triều cao độ +0m.

Các loài động vật khác có chim di cư về trú đông như: Ngỗng trời, vịt trời, còn có cò trắng, vạc, le le, mòng, két...

9.2. Hiện trạng khai thác sử dụng các dạng tài nguyên

9.2.1. Sử dụng tài nguyên khí hậu

Tài nguyên khí hậu ven biển Kim Sơn thuận lợi cho phát triển toàn diện các ngành sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp. Tuy nhiên cho đến nay, việc sử dụng tài nguyên này mới được thực hiện một cách tự phát, theo kinh nghiệm của người dân, ý thức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khí hậu chưa được hình thành một cách đầy đủ.



  • Đối với nông nghiệp

Nông nghiệp là một lĩnh vực sản xuất phụ thuộc nhiều vào thời tiết – khí hậu. Ả hưởng của khí hậu thể hiện trước hết ở vau trò của nó trong việc xác định cơ cấu cây trồng và thời vụ canh tác ở các vùng khác nhau. Tài nguyên khí hậu tại vùng rất thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng.

Ven biển Kim Sơn thuộc khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh. Chính sự tồn tại của mùa đông lạnh trên nền khí hậu nhiệt đới là nhân tố cơ bản quyết định cơ cấu cây trồng và mùa vụ sản xuất nông nghiệp. Với mùa hè nóng kéo dài có thể canh tác nhiều vụ với các cây nhiệt đới khác nhau: lạc, đỗ, ngô, khoai…Khó khăn chủ yếu trong thời kỳ này là lụt bão và các đợt rét đầu mùa và cuối mùa. Bên cạnh đó thời tiết nóng ẩm mùa hè cũng có mặt bất lợi, nó là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Trong mùa lạnh, khí hậu phù hợp phát triển các cây ôn đới và cận nhiệt đới. Trong mùa này cần chú ý tưới bổ sung cho cây trồng.

Ven biển thường có gió mạnh, vì vậy phải ưu tiên phát triển những giống cây có sức chịu đựng được bão tố, đồng thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật chắn gió, nhằm bảo vệ thảm cây trồng

Do chưa khai thác triệt để tiềm năng khí hậu nên việc chuyển đổi cơ cấu tại vùng nghiên cứu chưa thật mạnh mẽ. Trong 5 năm trở lại đây diện tích cũng như sản lượng trồng cây nông nghiệp: lúa, ngô, lương thực có hạt giảm mạnh.



  • Đối với lâm nghiệp

Lâm nghiệp của huyện Kim Sơn nói chung, các xã ven biển nói riêng chưa được trú trọng phát triển.

  • Đối với ngư nghiệp

Vùng bờ biển Kim Sơn có mùa nóng kéo dài từ cuối tháng 2 đến tháng 11, tương đối thuận lợi cho việc nuôi trồng các laọi hải sản nhiệt đới. Trong thực tế nghề này đã bắt đầu phát triển với năng suất tương đối cao

Khó khăn lớn nhất đối với ngư nghiệp ở đây là hoạt động của bão và gió mùa Đông Bắc. Mỗi cơn bão tràn đến thường làm cho nước biển dâng cao và sóng to, tàn phá mãnh liệt các khu vực nuôi trồng hải sản. Bên cạnh đó gió mùa Đông Bắc gây nên đợt giá rét, làm cho nhiệt độ biến động mạnh, là trở ngại lớn, làm gián đoạn việc nuôi trồng các loài cây con có nguồn gốc nhiệt đới. Vào các đợt bão, gió mùa Đông Bắc, các phương tiện đánh bắt đều phải đi tránh gió, làm giảm đáng kể sản lượng đánh bắt của ngư dân ven biển.

Mùa mưa cũng là mùa phát triển của tôm sú, tuy nhiên những trận mưa lớn không những gây ra sự phân tầng hàm lượng oxy hoà tan mà các yếu tố khác như nhiệt độ, p H, độ mặn trong nước các ao nuôi cũng thay đổi. Kết quả là sự thay đổi đột ngột nhiệt độ, độ mặn đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm sú và nếu trong môi trường p H chỉ đạt 4 ÷ 4,5 sẽ làm tôm sú bị chết.

Để phòng chống thiên tai, việc nuôi trồng hải sản cũng phải tiến hành theo thời vụ. Thời kỳ thuận lợi và an toàn nhất là từ tháng 4 đến tháng 6.

Để phát triển sản xuất với năng suất cao và bền vững, cùng với việc phòng chống thiên tai cần phải đầu tư vào khoa học kỹ thuật nuôi trồng, tạo môi trường sinh thái thuận lợi cho sự sinh trưởng của các sinh vật được nuôi.


  • Đối với giao thông vận tải và công nghiệp

Các loại hình giao thông: đường bộ, đường sông, đường biển đều chịu ảnh hưởng của thời tiết. Đặc biệt với giao thông thuỷ phải đối phó với các cơn bão, giông, lốc. Do đó,cần trang thiết bị phao cứu nạn đề phòng khi bất trắc xẩy ra.. Đối với thông đường bộ, khó khăn lớn nhất là mưa lũ trong mùa hè – thu. Các trận mưa làm cầu đường hư hỏng, ách tắc giao thông.

Công nghiệp là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của thời tiết nhất, tuy nhiên cần chú ý tới cấp công trình xây dựng đủ chống chọi với bão, và lựa chọn vật liệu phù hợp với thời tiết nóng ẩm kết hợp với hàm lượng muối cao.



9.2.2. Sử dụng tài nguyên đất

Đất bãi bồi của vùng ven biển Kim Sơn rất giàu dinh dưỡng và đa dạng đảm bảo cho năng suất sinh học cao. Tuy nhiên, việc khai thác sử dụng bãi bồi tại đây từ trước đến nay vẫn đang ở trạng thái tự nhiên, chưa có quy hoạch và đầu tư thích đáng.

Trước những năm của thập kỷ 80, nhân dân vùng ven biển Kim Sơn sử dụng đất bãi bồi chủ yếu để sản xuất lương thực, hoa màu, còn việc nuôi gia cầm và nuôi thuỷ sản ít được phát triển. Một công thức luôn được áp dụng trong thời gian này là: khoanh bờ, đắp vùng đưa nước ngọt từ vùng nội đồng ra để rửa mặn, bước đầu trồng cói lấn rừng ngập mặn, sau một thời gian khai thác, đất đã được cải tạo, đủ nước ngọt thì đưa lúa vào lấn cói.

Trong thời kỳ đổi mới, với cơ chế thị trường, nhu cầu về sản phẩm của thị trường tăng nên đã phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Những bãi bồi trong đê, ngoài việc trồng lúa, cói, và chăn nuôi gia cầm, còn được tận dụng mặt nước để nuôi thuỷ sản nước ngọt và nước lợ. Những bãi bồi ngoài đê, cũng đã bước đầu được sử dụng để nuôi nhuyễn thể. Song do thiếu kinh nghịêm, trình độ kỹ thuật còn thấp, lại không có quy hoạch nên hiệu quả kinh tế ngày càng giảm, nhiều vùng đất ao đầm trở thành hoang hoá. Bên cạnh đó việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón với liều lượng cao đã gây ô nhiễm môi trường sinh thái cửa sông ven biển. Tình trạng dư thừa thuốc trong đất được nước mưa hoà tan đưa ra vùng triều làm ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống của sinh vật và nhân dân trong vùng.

Nói chung, bãi bồi Kim Sơn trong quá trình khai thác và sử dụng đã cho nhiều kết quả tốt. Với phương thức trồng cói đã hình thành được các làng nghề thủ công chuyên sản xuất các sản phẩm chiếu cói, bao cói… như làng chiếu cói Ân Hoà, Phát Diệm…Với phương thức nuôi trồng hải sản đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giải quyết cho nhiều hộ nông dân vùng ven biển thoát cảnh nghèo túng. Tuy nhiên, việc sử dụng đất bồi tại đây vẫn chủ yếu dựa trên phương thức kinh nghiệm sản xuất truyền thống. Những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của vùng đất ngập nước và tài nguyên chứa trong nó, nên hiện nay chính quyền địa phương đã tập trung bảo vệ trồng lại rừng, hệ sinh thái đang được phục hồi. Khu vực phía Đông giữa đê Bình Minh 2 và Bình Minh 3 thành lập khu kinh tế kiểu mẫu bước đầu đã cho một số kết quả tích cực.

Dựa trên niên giám thống kê huyện Kim Sơn năm 2006 có thể nêu lên một số hiện trạng sử dụng đất vùng bãi bồi Kim Sơn như sau:



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id50526 114188
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Trường Đại Học Mỏ Địa Chất Khoa Dầu Khí Lời mở đầu
UploadDocument server07 id50526 114188 -> MỤc lục mở ĐẦU 10 Xuất xứ của dự án 10
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Thiết kế MÔn học nhà MÁY ĐIỆn lời nóI ĐẦU
UploadDocument server07 id50526 114188 -> ĐỀ TÀi ngân hàng trung ưƠng trưỜng trung cấp kt-cn đÔng nam
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Seminar staphylococcus aureus và những đIỀu cần biếT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Bài thảo luận Đánh giá chất lượng sản phẩm dầu thực vật Môn Phân Tích Thực Phẩm Nhóm 2 : Hoàng – Hùng Hiếu Hồng
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Luận văn tốt nghiệp gvhd: pgs. Ts nguyền Ngọc Huyền MỤc lục danh mục các chữ viết tắT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Aïi Hoïc Quoác Gia Tp
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Mục lục Tổng quan về thịt
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Gvhd: Nguyễn Minh Hùng Đề tài: Tìm Hiểu & Nghiên Cứu cpu

tải về 1.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương