LIÊN H
Ệ THỰC TẾ ĐẾN NGƯỜI BỆNH ĐANG NẰM VIỆN
Như trên đã nói, phần cuối buổi trình bày dẫn đến người bệnh cụ thể có liên
quan. Phần lý thuyết được áp dụng vào lâm sàng cũng như diễn biến kết quả
của sự ứng dụng này. Thí dụ người bệnh X với viêm tắc phế quản mạn tính
thường được cho toa corticosteroid 14 ngày sau khi xuất viện, nay với kết luận
thực chứng mới, có thể áp dụng thuốc trong 5 ngày với phương án dự trù trở lại
14 ngày nếu người bệnh có vấn đề.
PHÁT B
ẢN TÓM TẮT SAU KHI TRÌNH BÀY
Tạo ấn tượng người nghe và chứng minh sự làm việc nghiêm túc của mình, in
sẵn một bản tóm tắt nội dung về bài trình bày của mình. Bản tóm tắt là sự triển
khai dàn ý trên, viết lại cho người đọc nắm bắt được các điểm chính. Viết bản
tóm tắt từ bản dàn ý không nhưng giúp cho người nghe mà còn giúp ta nhớ bài,
phát triển kỹ năng truyền đạt thông tin. Các bản tóm tắt nên được lưu lại trong
hồ sơ cá nhân (porfolio) của ta như cuốn album trong quá trình học y.
CHÚ THÍCH:
[CLOT trial] Lee AYY, Levine MN, Baker RI, Bowden C, Kakkar AK, Prins M,
et al. Low-molecular-weight heparin versus a coumarin for the prevention of
recurrent venous thromboembolism in patients with cancer. N Engl J Med.
2003;349:146–53.
[RAIL trial] Pitt B, Zannad F, Remme WJ, Cody R, Castaigne A, Perez A, et al. The
effect of spironolactone on morbidity and mortality in patients with severe
heart failure. N Engl J Med. 1999;341:709–17.
68
69
Chương 11
TRÌNH BỆNH TRONG TƯƠNG LAI
Trình bệnh không chỉ là kỹ năng tường thuật, báo cáo sự kiện. Nó còn là kỹ năng
nhận xét, phân tích và thích ứng với hiện thực. Các hoạt động tư duy nầy về cơ
bản là không đổi từ ngàn năm nay, nhưng công cụ thì thay đổi đưa đến hai
khuynh hướng trái ngược nhau. Một là kỹ thuật ngày một phức tạp hơn như
chẩn đoán hình ảnh, robotic, phân tích mã di truyền và theo dõi tín hiệu miễn
dịch. Ngược lại, sự diễn dịch ngày càng đơn giản hóa và rõ ràng hơn. Thí dụ:
nhiều bệnh riêng lẽ ngày xưa nay quy vào một mối khi cơ chế sinh bệnh, nhất là
sinh học phân tử, được làm sáng tỏ. Trí tuệ nhân tạo, dựa trên dữ liệu lớn, đã
nhảy qua nhiều công đoạn chẩn đoán, để đưa ra nhiều dự báo chính xác mà
không cần kinh nghiệm của nhà lâm sàng, đôi khi vượt qua cả sự nhận thức của
chuyên gia.
Các công cụ chẩn đoán và điều trị cồng kềnh ngày càng thu nhỏ lại để có thể đưa
đến ngay giường bệnh (point of care). Không những SV phải làm quen với cách
vận hành các công cụ mới, mà còn phải làm quen với các xét nghiệm mới như
định mã di truyền, phân tích tiên lượng, trắc diện dược lý di truyền v.v. Thí dụ:
thông tin cổ điển là “người bệnh nam 61 tuổi mắc bệnh ung thư phổi”. Thông tin
hiện đại hơn sẽ là “người bệnh nam 61 tuổi, ung thư phổi loại không tế bào nhỏ,
giai đoạn T2aN1M0 với PET CT, EGFR đột biến dương có khả năng đáp ứng với
NIB (tyrosine kinase inhibitor)”.
Như vậy các kỹ thuật mới sẽ dần thay đổi cách hành văn của trình bệnh. Hiện
nay trong đào tạo y khoa Mỹ, phần chẩn đoán siêu âm cầm tay được chuyển vào
phần khám thực thể cùng với nhìn, sờ, gõ, nghe. Trắc diện dược lý di truyền
(pharmacogenomic profile) được xếp vào phần bệnh sử.
Sau đây là thí dụ một trường hợp bệnh được trình bày theo lối cổ điển, lối hiện
đại, và lối trong tương lai (dự đoán):
70
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |