MỞ ĐẦu lí do chọn đề tài



tải về 329.59 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích329.59 Kb.
#31837
1   2   3   4   5

CHƯƠNG 2

ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VQG BI-DOUP NÚI BÀ

2.1. Đánh giá tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà

2.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên


2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

a. Vị trí - Diện tích :

Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà nằm trên địa bàn hành chính huyện Lạc Dương và một phần diện tích thuộc huyện Ðam Rông, tỉnh Lâm Ðồng;

Toạ độ địa l‎ý:


  • Từ 12 độ 00' 00” đến 12 độ 52' 00” vĩ độ Bắc.

  • Từ 108 độ 17'00” đến 108 độ 42' 00” kinh độ Đông.



(Nguồn: Internet)

Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà hiện nay có diện tích 64.703,0ha bao gồm:



  • 56.437,0ha rừng đặc dụng thuộc phân khu chức năng (bảo vệ nghiêm ngặt và phục hồi sinh thái);

  • 8.266,0ha rừng phòng hộ xung yếu.

Ngoài ra tháng 1/2010 UBND Tỉnh còn giao cho VQG quản lý thêm 1.205,47 ha rừng phòng hộ đầu nguồn sông đa nhim (TK 96, 97,98) để xây dựng khu hành chính – dịch vụ (100ha).

b. Địa hình

Nhìn chung địa hình của khu vực Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà nghiêng theo hướng Đông Bắc-Tây Nam. Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao như dãy Bidoup chạy theo hướng Đông Nam; dãy Giarich hướng Đông bắc hay dãy Hòn Giao theo hướng Bắc nam. Điều kiện địa hình này đã tạo ra những đỉnh núi cao quanh năm có mây mù che phủ và các thung lũng sâu, là thượng nguồn của các con sông lớn trong khu vực. Độ chênh cao từ 600 m (Sông Krongno) và 2.287m (đỉnh Bidoup) hay 2167m (đỉnh Núi Bà) đã tạo ra những cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng thích hợp cho nhiều hoạt động du lịch khác nhau.



c. Khí hậu - Thuỷ văn:

Khí hậu: Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà nằm trên địa hình núi trung bình và núi cao, có độ cao trung bình 1.500m – 1.800m, được bao quanh bởi các dãy núi cao, nên tuy nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nhưng khí hậu tại Vườn QG có khí hậu ôn hoà, mát mẻ quanh năm. Nhiệt độ trung bình năm là 180C; tối thấp (- 0,10C năm 1932); (tối cao 31,50C năm 1928, 1930, 1934). Trong năm có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; Nhiệt độ trung bình năm 180C; Lượng mưa trung bình: 1800mm; Độ ẩm vào mùa khô là 80% và mùa mưa là 85%. Tuy nhiên tại các đai có độ cao trên 1.900m như Bidoup, Hòn Giao, Gia Rích, Chư Yên Du thì lượng mưa có thể đạt 2.800 – 3.000mm/năm và có sương mù bao phủ quanh năm.

Thuỷ văn: VQG Bidoup – Núi Bà là thượng nguồn của các hệ thống sông Krông Nô là một nhánh của sông Mêkong, Sông Đồng Nai, là nguồn cung cấp nước cho các nhà máy thuỷ điện ở các tỉnh miền Nam và còn là nguồn cung cấp, duy trì nguồn nước cho các hồ tại Thành Phố Đà Lạt như: hồ Ðan Kia, hồ Ða Thiện, hồ Than Thở, hồ Xuân Hương và vùng phụ cận.

2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên:

Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà là một mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới của Việt Nam đặc trưng cho vùng cao nguyên, là một địa điểm lý tưởng trong nghiên cứu khoa học, bảo tồn và đa dạng sinh học. Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà có rừng kín thường xanh lá rụng, rừng kín hỗn hợp cây lá rộng và lá kim ẩm á nhiệt đới; rừng lùn đỉnh núi, rừng thưa cây lá kim (thông ba lá), kiểu phụ rừng rêu.

Đến rừng Bidoup – Núi Bà chúng ta được tận mắt chứng kiến nơi khởi thủy, đầu nguồn của các con sông chảy qua khu vực Tây Nguyên, Miền Trung và Đông Nam Bộ: Đó là sông Đồng Nai khởi nguồn từ Đạ Đờn; sông K’rông Nô, K’rông Ana, Sê rê pốk… Sức quyến rũ của rừng Bidoup – Núi Bà ẩn chứa ở một vùng địa hình chia cắt bởi các dãy núi cao như đỉnh Hòn Giao (2.060m), đỉnh Bidoup (2.287m), đỉnh LangBiang (2.167m). Với khí hậu ôn hoà, nhiệt độ trung bình năm 180C, lượng mưa trung bình năm 1800mm, tại các đai cao trên, lượng mưa có thể đạt 2800-3000mm/năm, đã tạo nên một hệ thống các thác nước hùng vĩ tuyệt đẹp theo các bậc thềm địa chất khác nhau như Liêng ca, Liêng char, thác 7 tầng, thác K’long K’lanh. Do đó tạo nên các thảm thực vật khác nhau thay đổi theo độ cao. Thảm thực vật rừng ở đây được đặc trưng bởi các kiểu rừng:

Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: Phân bố ở độ cao trên 1.700m, lượng mưa 2.300mm- 3.000mm/năm, độ ẩm từ 89%- 95%, được đặc trưng bởi các họ: chè (Theaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Re (Lauraceae), họ Ngọc Lan (Magnoliaceae), họ Đỗ Quyên (Ericaceae), họ Hồi (Illiciaceae), họ Hoa Hồng (Rosaceae), họ Thông (pinaceae), họ Kim Giao (Podocarpaceae), họ Hoàng Đàn (Cupressaceae).

Kiểu phụ rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới: Phân bố ở độ cao trên 1.700m, được đặc trưng bởi các họ: họ Dẻ (Fagaceae), họ Re , họ Chè, họ Ngọc Lan, họ Thông, họ Kim Giao, họ Hoàng Đàn.

Kiểu phụ rừng rêu( rừng lùn): Phân bố ở độ cao trên 2.000m, nơi đây thường xuyên bị che phủ, trên cây rừng có nhiều rêu và địa y mọc, đặc trưng bởi các họ: họ Phong Lan (Orchidaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Đỗ Quyên (Ericaceae).

Rừng thưa cây lá kim á nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở độ cao dưới 1.700m, đặc trưng bởi Thông ba lá( Pinus khasya) mọc thuần loài.

Rừng tre nứa và rừng hỗn giao tre với cây  lá rộng: Phân bố ở độ cao 800- 1.200m, đặc trưng bởi các loài : Le Núi Dinh (Oxynanthera dinhensis), Lồ Ô (Bambusa balcoa), cùng với các loài cây gỗ như: Mạ sưa (Helicia  cochinchinensis), Chẹo (Engelhardtia  wallicluana). Hệ thực vật ở đây được di cư xâm nhập theo 3 luồng : Hệ thực vật Ấn Độ- Miến Điện có họ Bàng (Combretaceae); Hệ thực vật Himalaya- Vân Nam, Quý Châu Trung Quốc có 5 họ đặc trưng: họ Kim Giao, họ Dẻ, họ Ngọc Lan, họ Re, họ Đỗ Quyên; Hệ thực vật Bắc Việt Nam- Nam Trung Quốc có 6 họ đặc trưng: họ Đậu (Fabaceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cỏ (Poaceae), họ Điều (Anacardiaceae).

Nhờ khả năng phòng hộ, giữ đất, giữ nước, hấp thụ CO2 của thảm thực vật và các giá trị đa dạng sinh học, Bidoup - Núi Bà có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì tính cân bằng của hệ sinh thái và môi trường. Đồng thời, đây cũng nguồn tài nguyên quý giá để phát triển loại hình du lịch sinh thái của VQG Bidoup - Núi Bà nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.



2.1.1.3. Giá trị đa dạng sinh học

  • Đa dạng sinh học về loài thực vật:

Với khoảng 1.468 loài bao gồm họ Lan 250 loài; họ Cúc 78 loài; họ Ðậu 65 loài; họ Cỏ 58 loài; họ Cà phê  45 loài; họ Dẻ 41 loài; họ Thầu dầu 35 loài; họ Cói 33 loài; họ Hoa hồng 33 loài; họ Long não 29 loài; họ Dâu tằm 28 loài; họ Ðơn nem 25 loài; họ Bạc hà 22 loài; họ Ðỗ quyên 21 loài; họ Chè 21 loài…

Trong rừng Bidoup – Núi Bà chúng ta luôn bắt gặp nhiều loài cây lâu năm, thân rất lớn như Pơmu, Chò sót, Chò nước, Thông nàng, Thông chàm, Thông năm lá (đây là loại cây rất hiếm, chiếm tỉ lệ nhỏ, chỉ có ở một số đỉnh núi cao trong đó có Núi Bà), Ngo tùng, Thông hai lá dẹt (là loại thông quý hiếm của cả thế giới, thân có thể rộng 4m, cao trên 20m). Bên cạnh đó còn có Giổi, Long não, Thông trê, Thông lông gà… Rừng ở đây còn có một số loài cây thuốc quý: Đại bi, Nam sâm, Ngưu tất nam, bổ cốt toái, Hoàng liên ô rô. Đặc biệt nơi đây còn có nhiều loại nấm quý như: Linh chi, Xích chi, Hắc chi…

Sở hữu mức độ đa dạng và đặc hữu cao về thực vật: có ít nhất 1.561 loài thực vật có mạch, thuộc 5 ngành, 161 họ và 681 chi; Số loài thực vật cần quan tâm bảo tồn gồm 74 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam 2007, và Sách đỏ IUCN 2009, thuộc 29 họ thực vật; 96 loài đặc hữu,...

Vườn quốc gia còn mệnh danh là vương quốc các loài Lan, sở hữu nguồn gien về Lan lớn nhất Việt Nam (258 loài), phần nhiều là các loài đặc hữu với cao nguyên Lâm Viên như: Thanh lan, Hồng lan, Vân hài, Hoàng lan, Tuyết ngọn, Mắt trúc, Bạch nhạn, Lan sứa, Lá gấm…



  • Đa dạng về loài động vật:

Hệ động vật của VQG cũng rất đa dạng và đặc hữu cao, gồm 10 bộ, 24 họ, 75 loài. Bao gồm: họ Cầy, họ Chuột, họ Khỉ, họ Mèo, họ Sóc cây, họ Chồn, họ Hươu nai, họ Gấu, họ Trâu bò, họ Nhím, họ Chuột chù, Chồn bay,  họ Dơi quả, họ Cu li, họ Vươn, họ Chó, họ Lợn, họ Cheo cheo, họ Tê tê, họ Sóc bay, họ Dúi. Điều nổi lên đối với khu hệ thú VQG Bidoup-Núi Bà là các loài thú lớn móng guốc hiện diện tương đối đầy đủ: Bò tót (Bos gaurus), Trâu rừng (Bubalus arnee), Sơn dương(Naemorhedus sumatraensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Voi (Elephas maximus). Các loài linh trưởng cũng khá phong phú (07 loài).

VQG Bidoup-Núi Bà nằm trong vùng chim đặc hữu của cao nguyên Đà Lạt, gồm 15 bộ, 43 họ và 220 loài trong đó 14 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam. Với 03 vùng chim quan trọng là: Bidoup, Langbian, và Cổng trời có nhiều loài chim đặc hữu hẹp của Cao nguyên Đà lạt như: Khướu đầu đen (Garrlax milleti), Khướu đầu đen má xám (Garrulax yersini), Khướu đầu xám (Garrulax vassali), Bồ câu nâu (Columba punicea), Trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae), Sẻ thông họng vàng (Carduelis monguilloti), Khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), Trĩ sao (Rheinardia ocellata), Diệc nâu (Anorrhinus tickelli). Ngoài ra, theo Nghị định 32, các loài chim cần quan tâm bảo tồn ở VQG Bidoup-Núi bà còn có thêm: Gà lôi hông tía (Lophura diardi), Chích choè lửa (Copsychus malabaricus), Vẹt ngực đỏ (Psittacula alexandri) và hai loài bị đe dọa thuộc sách đỏ của IUCN(2004) là Hồng hòang (Buceros bicornis), Bồng chanh rừng (Alcedo hercules)

Về Bò sát: họ Rắn nước, họ Nhông, họ Rắn hổ, họ Tắc kè, họ Kỳ đà, họ Rùa núi, họ Thằn lằn bóng, họ Trăn, họ Rắn mống, họ Rắn lục, họ Ba ba.

Về Ếch Nhái: họ Ếch nhái, họ Nhái bầu,  họ Cóc nhà, họ Ếch cây; …



  • Đa dạng về nguồn gen:

Có nhiều  nguồn gen quý hiếm và đặc hữu như : Thông tre, Thông đỏ, Du sam, Pơ mu Bách xanh, Thông hai lá dẹt, Thông 5 lá Ðà Lạt, Ðỉnh tùng, Hoàng đàn giả. Côm Bidoup, Chè gò đồng Bidoup, Lan Hoàng Thảo Ðà Lạt, Lan Hoàng thảo Lang Biang, Trà hoa Langbiang, Chân chim Langbian, Cung nữ Langbian, 250 loài phong lan, cho hoa đẹp và quý, 9 loài Ðỗ quyên, 5 loài Thu hải đường, 6 loài Thích là các nguồn gen quý.

Từ những số liệu trên cho thấy khu hệ động, thực vật của Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà có thể được xem như một vườn động, thực vật tự nhiên rộng lớn với những cánh rừng nguyên sinh còn sót lại của Việt Nam và khu vực Đông Nam Châu Á, là một nguồn khám phá vô tận của tất cả các du khách và các nhà khoa học khi đặt chân đến thành phố Đà Lạt.


2.1.2. Tổng quan về điều kiện kinh tế xã hội


2.1.2.1. Điều kiện kinh tế – xã hội

a. Dân số

Vườn quốc gia (VQG) Bidoup – Núi Bà nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Lạc Dương là: Xã Lát, Đưng Knớ, Đạ Sar, Đạ Chais và Đạ Nhim và một phần nhỏ xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Toàn bộ các xã đều nằm ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, có diện tích lớn và dân cư thưa thớt. Tổng diện tích của 5 xã là 127.363,00 ha, tổng số hộ là 2.840 hộ với 14.242 nhân khẩu. Mật độ dân số bình quân là 11,2 người/km2. Trong đó, có những xã có mật độ dân số rất thấp như Đa Chais (3,9 người/km2), Xã Lát (6,0 người/km2).

Hầu hết dân cư đều nằm ngoài vùng lõi của VQG (93,06%). Số dân cư đang sống trong vùng lõi là 193 hộ với 942 nhân khẩu (chiếm 6,94%). Số hộ này tập trung tại 2 thôn là: thôn Klong Klanh (147 hộ với 677 nhân khẩu) và thôn Đưngksi (46 hộ với 265 nhân khẩu) của xã Đạ Chais.

b. Văn hoá, y tế và giáo dục

Thực hiện các chính sách đặc thù về giáo dục; tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trường ở các cấp học. Quan tâm chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm xã hội cho học sinh, sinh viên. Hiện nay, tại 5 xã có tổng cộng 3.756 học sinh–sinh viên, chiếm 26,37% tổng dân số. Trong đó, cấp 1 là 1.882 học sinh chiếm 13,21% tổng dân số; cấp 2 là 1.236 học sinh chiếm 8,68% tổng dân số, cấp 3 là 480 học sinh chiếm 3,37% tổng dân số và số sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp là 158 chiếm 1,11% tổng dân số (số liệu năm 2010).

Đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề, phát triển các cơ sở đào tạo, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học và chăm lo đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ dân tộc thiểu số.

Về y tế, các xã đã và đang thực hiện công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và nâng cao chất lượng dân số. Bảo đảm nhu cầu sinh hoạt văn hóa của đồng bào các dân tộc trên cơ sở bảo tồn tinh hoa văn hóa và bản sắc truyền thống. Đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng gia đình, thôn, buôn văn hóa. Phát triển đồng bộ mạng lưới y tế đến cơ sở; Từng bước nâng cao chất lượng chuyên môn và y đức cho đội ngũ cán bộ y tế; thực hiện các giải pháp chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện; đầu tư xây dựng các cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế có bác sĩ và thôn, buôn có y tế cộng đồng.



c. Đặc điểm kinh tế

Vườn Quốc gia nằm trong địa giới hành chính của Huyện Lạc Dương và một phần Huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng là các huyện miền núi còn nhiều khó khăn, hoạt động quản lý bảo vệ rừng còn nhiều thách thức. Chỉ tính phần diện tích Vườn Quốc gia nằm trong địa giới hành chính Huyện Lạc Dương thì diện tích canh tác chỉ chiếm 5% tổng số diện tích nhưng lại có 18.804 khẩu/3601 hộ mà phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số bản địa sinh sống bằng nghề canh tác truyền thống với tỉ lệ đói nghèo lên đến 27,91% (1.005 hộ). Chính vì thế mà người dân vẫn còn tập quán phá rừng làm rẫy, săn bẫy thú, khai thác gỗ và những lâm sản ngoài gỗ trái phép trong khu vực Vườn Quốc gia mặc dù đã có hợp đồng giao khoán quản lý bảo vệ rừng.

Nguồn lao động ở đây là khá lớn có 8.900 lao động chiếm 62,49% dân số đang trong tuổi lao động, trong đó, nam là 4.313 người và nữ là 4.587 người, số người ngoài độ tuổi lao động là 5.342 người chiếm 37,51%. Tuy nhiên hầu hết lao động đều là lao động phổ thông chưa được đào tạo nghề, công việc chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tham gia tổ giao khoán bảo vệ rừng, làm thuê theo thời vụ.

Phụ nữ chiếm 48,67 % tổng dân số của 5 xã. Phụ nữ người K’Ho thường sinh rất nhiều con và làm chủ gia đình (theo chế độ mẫu hệ). Ngoài ra, do trình độ dân trí thấp hơn, khả năng nói tiếng phổ thông kém, ít khi được đi chợ huyện, chợ tỉnh nên phụ nữ K’ho thường ngại tiếp xúc với người ngoài. Do đó, họ hầu như họ không tham gia các chương trình tập huấn, khuyến nông, khuyến lâm để nắm bắt thông tin về sản xuất, thị trường, cuộc sống chính trị xã hội.

Nguồn thu nhập chính của các hộ trong vùng chủ yếu là từ Nông nghiệp (chiếm khoảng 87% tổng thu nhập). Trong đó cà phê và bắp là 02 nguồn thu nhập chính. Song hầu hết các hộ có diện tích đất nông nghiệp rất ít nhập lượng cho nông nghiệp thấp (phân bón, nước tưới, thuốc bảo vệ thực vật, quy trình công nghệ…) kỹ thuật canh tác yếu, nguồn giống không đảm bảo nên năng suất cây trồng rất thấp, cộng với chi phí sản xuất cao nên tiền lãi hàng năm rất thấp, thậm chí còn bị lỗ.

Ngoài nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp nguồn thu từ nhận khoán bảo vệ rừng cũng là nguồn thu quan trọng của các hộ. Đối với các hộ được chi trả dịch vụ môi trường với mức 290.000 đồng/ha/năm hàng quý có thể được nhận tới 3 triệu đồng, thậm chí còn cao hơn. Đối với các vùng không được chi trả dịch vụ môi trường thì ngoài tiền giao khoán bảo vệ rừng theo chính sách còn được hỗ trợ thêm 100.000 đồng/ha theo chương trình 30a.



d . Cơ sở hạ tầng

Các tuyến đường mới được xây dựng vào Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà như tuyến đường 723 nối liền hai trung tâm du lịch là Nha Trang và Đà Lạt; tuyến đường 722 (Đường Đông Trường Sơn) nối liền các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh duyên hải miền Trung. Các xã xung quanh Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà đã có điện lưới Quốc gia và trong tương lai gần hệ thống nước sạch cũng sẽ được đưa về các vùng sát Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà theo chương trình nước sạch nông thôn của Chính phủ. Ngoài ra, chỉ nằm cách trung tâm TP. Đà Lạt khoảng 20km về phía Bắc, Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà cũng có một thuận lợi lớn trong việc sử dụng hệ thống cơ sở hạ tầng và lưu trú trên địa bàn thành phố Đà Lạt cho các hoạt động du lịch sinh thái.



2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

Các dân tộc thuộc khu vực Vườn Quốc gia còn giữ được nhiều nét hoang sơ nguyên thủy về sinh thái và nhân văn. Cũng giống như các cộng đồng dân tộc khác, người K’ho cũng có các nghề thủ công truyền thống:

Dệt thổ cẩm đóng vai trò quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người K’ho. Nghề dệt không những cung cấp những sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, góp phần nâng cao nguồn thu nhập gia đình mà còn giúp họ thể hiện và bảo tồn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Thông qua tấm vải dệt, người phụ nữ K’ho đã gửi gắm tâm hồn, tình cảm cũng như sự cảm nhận về thế giới tự nhiên, con người qua những hoa văn sinh động, đó là những vật dụng gần gũi, thân thương gắn bó trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của họ như cầu thang nhà sàn, cán xà gạc, con thuyền, mũi chông, cổ nỏ,… và thế giới tự nhiên như vầng trăng, cây cỏ, chim muôn,…


  • Các lễ hội, nghi lễ nông nghiệp đặc trưng: Lễ ăn trâu, Cúng phát rẫy, Cúng đốt rẫy, Cúng lúa trổ đòng, Cúng sắp gieo lúa, Cúng lúa về nhà.

  • Diễn xướng truyền khẩu và âm nhạc dân gian: Hát Yal yau (Kể chuyện xưa), Hát tâm pơt (Hình thức hát đối đáp), Hát Lảh lông: Hình thức hát giao duyên.

  • Một số nhạc cụ dân gian tiêu biểu: Đàn đá, công chiêng, Trống và bộ khơi như: khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ và đàn môi…

Góp phần làm nên nét đẹp văn hóa không thể không kể đến tục uống rượu Cần của đồng bào K’Ho. Có thể nói tục uống rượu cần và tục đánh chiêng là hai tục thường được nhắc đến trong truyện cổ. Những tục này là nét đẹp trong đời sống văn hóa của người K’Ho. Uống rượu cần trong tiếng chiêng tiếng trống, trong không khí hội hè nên con người càng trở nên gần gũi, gắn bó. Nếu có hiềm khích chuyện cũ, dịp này cũng bỏ qua để cùng nhảy múa tưng bừng. Nếu ai có lỗi lầm thì luật tục "phạt rượu", cũng là cớ để cùng hòa giải, xóa bỏ lỗi lầm, để xóa đi cái mặc cảm mà hòa nhập trong sự cảm thông của cộng đồng. Nếu tiếng nhạc trong lễ cưới "kết đôi" đằm thắm thì trong tang lễ là buồn thương. Trong ngày hội tưng bừng, thì trong tế lễ trang nghiêm. Người uống rượu cũng tùy nghi lễ mà có cách mời chào, cách thưởng rượu khác nhau cho phù hợp. Tục uống rượu cần gắn liền với sinh hoạt văn hóa, thành tục lệ không thể thiếu được trong đời sống của người K’Ho trong quá khứ và một phần hiện tại.

Đây chính là các tài nguyên nhân văn quan trọng cần được bảo tồn và đưa vào khai thác hợp lý để tạo ra ưu thế so sánh với các điểm du lịch khác trong cả nước và khu vực. Thêm vào đó, các di tích lịch sử và các công trình kiến trúc hiện được bảo tồn tại thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận sẽ là những sản phẩm du lịch đặc thù có thể liên kết khai thác cùng với các tour du lịch tham quan Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà.



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id190496 229274
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Báo cáo thực tập tốt nghiệp LỜi mở ĐẦU
UploadDocument server07 id190496 229274 -> I. objectives
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Kieåm tra hoïc kì I moân: hoùa hoïc khoái 11 (2011-2012) Thôøi gian 45’ ÑEÀ 1 Caâu 1
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Chuyên đề: VI sinh vậT Ứng dụng trong xử LÝ phế thải I. Nguồn gốC phế thảI 1/ Phế thải là gì ?
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Ngaøy soaïn : Ngaøy daïy : I
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Noäi dung cô baûn cuûa cuoäc Duy taân Minh Trò Về chính trị
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Giáo án sử 8 Tuần: 12 Ngày soạn: 06/11/2011
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 200 câu hỏi về môi trường (Phần 4) (03-07-2096 15: 37)
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 1. Cn b ng c¸c ph­¬ng tr×nh ph¶n øng sau
UploadDocument server07 id190496 229274 -> TỔ HÓa trưỜng thpt lê quý ĐÔn tam kỳ CÂu hỏI Ôn tập hoá chưƠng đIỆn ly. LỚP 11

tải về 329.59 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương