LUẬn văn thạc sỹ



tải về 1.02 Mb.
trang4/7
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.02 Mb.
#4789
1   2   3   4   5   6   7
CHƯƠNG 3:

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



3.1. Phương hướng chủ yếu

Trong những năm gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều biến đổi toàn diện và tích cực trên nhiều lĩnh vực, kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được ổn định và nâng lên, hệ thống chính trị được củng cố, năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền được nâng lên, dân chủ được mở rộng, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng phát huy.

Trong xu thế chung đó, công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu nhất định. Sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, tín đồ được quan tâm và tạo điều kiện của các cấp chính quyền; việc bày tỏ đức tin của tín đồ, lễ nghi, lễ hội tôn giáo được diễn ra bình thường, không có sự phân biệt giữa các tôn giáo; việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo được giải quyết nhanh chóng thuận tiện. Hoạt động đào tạo bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo được duy trì và mở rộng, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Việc in ấn kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được thực hiện thường xuyên. Các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện giao lưu, hợp tác với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Việc xây dựng, tu bổ, sửa chữa cơ sở thờ tự tôn giáo được quan tâm tạo điều kiện giải quyết nhanh theo quy định của pháp luật. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm năm qua số cơ sở thờ tự được xây mới và tu bổ sửa chữa là 300, giáo sĩ xuất cảnh là 1000, bổ nhiệm là 287, số chức sắc tôn giáo đang được đào tạo tại các trường lớp tôn giáo ngày càng tăng, các phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo luôn được các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo, đã động viên các chức sắc tôn giáo và tín đồ tích cực tham gia các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh trật tự, phong trào xây dựng gia đình văn hóa, các hoạt động xã hội từ thiện tại địa phương … Qua đó, có hàng ngàn tấm gương điển hình “người tốt, việc tốt” được biểu dương, hàng trăm tỷ đồng đã được đóng góp để hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh neo đơn, khó khăn.

Những kết quả trên khẳng định một thực tế là hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi trên cơ sở thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước với phương châm: “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ X đã xác định:

Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân [24, tr. 122].

Văn kiện Đại Hội Đảng bộ Thành phố nhiệm kỳ VIII (2006 – 2010) cũng xác định: “Tăng cường vận động chức sắc các tôn giáo và đồng bào có đạo phát huy tinh thần yêu nước, thực hiện nghĩa vụ công dân; sống tốt đời đẹp đạo. Phát huy hơn nữa vai trò, khả năng của các tổ chức tôn giáo trong sinh hoạt xã hội, công tác từ thiện nhân đạo” [25, tr.76].

Trên cơ sở Văn kiện Đại Hội Đảng nhiệm kỳ X và Văn kiện Đại Hội Đảng bộ Thành phố nhiệm kỳ VIII, phương hướng công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào một số nội dung cụ thể như sau:

Bảo đảm nhu cầu tín ngưỡng chân chính của quần chúng có đạo và đảm bảo cho nhu cầu ấy luôn luôn được giải quyết hợp lý.

Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo được diễn ra trong khuôn khổ chính sách, pháp luật và việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Quản lý nhà nước còn chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống Đảng, Nhà nước và dân tộc. Đây là mục tiêu, phương hướng lớn, cũng là một trong những điều quản lý nhà nước phải hướng tới.

Cần có những biện pháp tích cực để khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo; phải giải quyết kịp thời, đúng chính sách và các nhu cầu về hoạt động chính đáng, hợp pháp của các tôn giáo. Tiếp tục thẩm tra xác minh, đề xuất giải quyết các khiếu nại còn tồn đọng liên quan đến cơ sở vật chất của tôn giáo mà nhà nước quản lý, sử dụng sau 30/4/1975, hiện các tôn giáo đang đòi lại nhằm góp phần làm giảm những dấu hiệu bất ổn.

Cần phối hợp chặt chẽ và đồng bộ hơn với các ngành chức năng, các quận, huyện để kịp thời ngăn chặn, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân tộc, chính sách tôn giáo của các nhóm mạo danh “GHPGVNTN” Lê Quang Liêm và nhóm xấu trong PGHH, nhóm xấu trong Tin lành.

Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của Ban tôn giáo Thành phố và kết hợp với các quận, huyện kiện toàn bộ máy Ban Tôn giáo các quận, huyện đủ số lượng, đảm bảo chất lượng hoạt động.

Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, giải quyết kịp thời những nhu cầu chính đáng, hợp pháp của các tôn giáo. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo từ Thành phố đến quận, huyện, phường, xã và tổ chức các hội thảo chuyên đề về tôn giáo.

Ban Tôn giáo Thành phố cần tham mưu với UBND Thành phố sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 22 của Chính phủ; hướng dẫn các tôn giáo chấp hành pháp luật, hoạt động theo phương châm “tốt đạo, đẹp đời”, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào, tín đồ các tôn giáo phù hợp với đặc điểm sinh hoạt của từng tôn giáo.

Ban Tôn giáo Thành phố cần phối hợp với Ban Dân Vận Thành ủy và các ban, ngành, đoàn thể Thành phố tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Cụ thể là: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung ương Khóa IX về công tác tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 01 của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, Nghị định 22 của Chính phủ về Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các các tôn giáo; tập trung vào việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng nòng cốt, nhất là việc phát triển đảng viên, đoàn viên trong các tôn giáo (toàn Thành phố chỉ có 6 đảng viên là người Chăm trên tổng số 3.259 thanh niên người Chăm, trong đó có 1.969 thanh niên là Hồi giáo).

Về Hội đoàn tôn giáo, Nghị định 26/CP chỉ quy định cho tín đồ được tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự. Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Hội đoàn tôn giáo được xác định là một hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra, không nhằm mục đích phục vụ hoạt động tôn giáo thì không phải là Hội đoàn tôn giáo; việc thành lập và hoạt động phải thực hiện theo quy định của pháp luật về lập hội. Pháp lệnh quy định Hội đoàn tôn giáo được hoạt động sau khi tổ chức tôn giáo đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để nâng cao hiệu quả về công tác quản lý nhà nước đối với các Hội đoàn tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian tới cần có cuộc điều tra cơ bản, hệ thống với số liệu tin cậy về thực trạng Hội đoàn tôn giáo trên phạm vi thành phố.

Việc điều tra này không chỉ thống kê thuần túy mà cần phải phân loại và đánh giá thực trạng các Hội đoàn (nhất là Hội đoàn Công giáo) để có cách quản lý cho phù hợp.

Hiện nay, tại thành phố Hồ Chí Minh có 85 Hội đoàn tôn giáo hoạt động theo quy định, còn lại 13 gia đình phật tử hoạt động không thuộc Thành hội Phật giáo thành phố quản lý và 17 Hội đoàn Công giáo chưa được chính quyền cho phép hoạt động.

Đối với các Hội đoàn mang tính thuần túy tôn giáo hoặc hoạt động nhân đạo từ thiện thì xem như đó là công việc nội bộ của tôn giáo và tạo điều kiện cho hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, còn đối với các Hội đoàn mang tính chính trị phản động thì cương quyết loại bỏ.

Để việc quản lý Hội đoàn tôn giáo có hiệu quả không chỉ nắm chắc đội ngũ lãnh đạo của nó (huynh trưởng, hội trưởng), điều quan trọng là nắm được các chức sắc tôn giáo quản lý hoạt động Hội đoàn. Do đó, ở địa phương cần tranh thủ sự ủng hộ của các chức sắc tôn giáo và vai trò của Mặt trận, đoàn thể và các lực lượng nòng cốt trong tôn giáo để đưa hoạt động của các Hội đoàn tôn giáo vào khuôn khổ pháp luật.



3.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

3.2.1. Phát huy những kinh nghiệm đã có được trong quá trình quản lý nhà nước đối với tôn giáo

Trong những năm qua, có rất nhiều bài học quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, phải đúc kết thành 9 bài học sau đây:



Bài học thứ 1: Nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; hiểu thấu bản chất, đặc điểm của đời sống tâm linh, tinh thần để thấy được nó vừa là hình thái ý thức xã hội, vừa là một thực thể xã hội.

Bài học thứ 2: Tôn giáo là hiện tượng phức hợp phải có quan điểm tổng thể, toàn diện, khách quan trong nhìn nhận, trong giải quyết.

Bài học thứ 3: khi giải quyết vấn đề tôn giáo, phải nắm vững những nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo để giải quyết (năm nguyên tắc) nhưng đồng thời phải tuân thủ nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (lưu ý bài học kinh nghiệm của Trung Quốc).

Bài học thứ 4: Phải hết sức xem trọng vai trò của chức sắc tôn giáo và dùng tôn giáo để giải quyết vấn đề tôn giáo.

Bài học thứ 5: Phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong giải quyết vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước đối với tôn giáo.

Bài học thứ 6: Lòng yêu nước của tín đồ sẽ vượt qua được những khác biệt về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo và nó sẽ vượt qua những điểm dị biệt, nhân tố cơ bản là đại đoàn kết dân tộc - đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.

Bài học thứ 7: Muốn quản lý nhà nước đối với tôn giáo tốt, cần phải có đủ các điều kiện: các yếu tố chuyên môn, phương pháp, nghệ thuật quản lý.

Bài học thứ 8: Phải đảm bảo sự mềm dẻo trong vận động và tính pháp chế trong chính sách có liên quan đến tôn giáo.

Bài học thứ 9: Cần phải coi trọng nghiên cứu thực tiễn về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.

3.2.2. Kiện toàn và nâng cao năng lực về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước từ Thành phố đến quận, huyện và phường, xã (đây được coi như giải pháp lớn thứ hai)

Phải kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước trước hết bằng pháp luật, phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật về tôn giáo, hiện nay ta mới chỉ có Pháp lệnh.

Cần tăng cường quản lý nhà nước trên ba mặt: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Lập pháp: đưa những vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo ra Hội đồng nhân dân các cấp xã, phường để bàn và quyết định.

Hành pháp: phải ban hành các nghị quyết, chỉ thị, thông tư của nhà nước và quyết định hành chính của UBND các cấp.

Tư pháp: tiến hành xây dựng các quy định về tài phán hành chính (văn bản nhỏ) kết hợp luật pháp nhà nước (luật công) với các Hương ước mới của làng xã.

Quản lý nhà nước đối với tôn giáo bằng công cụ quan trọng là các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó có Ban Tôn giáo các cấp; cần phải kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo ở các quận, huyện theo tinh thần Nghị định 22.

- Kiện toàn mô hình quản lý nhà nước: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với tôn giáo bằng một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước được đào tạo chuyên ngành và có phẩm chất tốt. Đội ngũ nói trên hiện đang ở trong tình trạng bất cập, không chuyên môn, không được đào tạo.

Ban Tôn giáo thành phố có 18 cán bộ, nhưng phải phụ trách một lượng công việc rất lớn, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo chuyên ngành, đa số là cán bộ đoàn thể từ cơ sở đưa về, chưa có cán bộ trẻ được quy hoạch đào tạo dài hạn cho công tác tôn giáo.

Ở cấp quận và cơ sở, cán bộ làm công tác tôn giáo vừa thiếu, vừa yếu.

Phần lớn là cán bộ không chuyên ngành, không được huấn luyện, không được đào tạo để quản lý, để làm công tác tôn giáo. Thậm chí có cán bộ làm công tác tôn giáo nhưng hiểu biết rất hạn chế về hoạt động, về đặc điểm và sự hình thành các tôn giáo ở địa phương. Cán bộ không hiểu được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, dẫn đến tình trạng giải quyết những vấn đề nảy sinh từ chỗ đơn giản đẩy lên phức tạp hoá vấn đề, làm giảm lòng tin của tín đồ tôn giáo vào chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Cán bộ ít đi thực tế cơ sở, không thu thập được thông tin phản hồi từ các tín đồ, các tổ chức tôn giáo, từ đó dẫn đến đôi khi không có quyết sách kịp thời, đúng đắn về một vấn đề phức tạp nảy sinh, nhất là vấn đề đất đai, nơi thờ tự. Cho nên củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là một việc làm cấp thiết.

Cơ quan chuyên trách làm công tác tôn giáo là Ban Tôn giáo, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Ban Dân vận cùng với các Đoàn thể. Đây là lực lượng trực tiếp, thường xuyên tham mưu cho Đảng giải quyết vấn đề tôn giáo và thực hiện hầu hết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

Để củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo từ quận đến cơ sở, cấp uỷ đảng phải quan tâm quy hoạch, đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp mình. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ chuyên trách bằng nhiều hình thức như: tập huấn, tham quan, đào tạo ngắn và dài hạn... sao cho cán bộ có trình độ ngang tầm với nhiệm vụ. Bởi vì, mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó có tín đồ tôn giáo không chỉ thể hiện ở đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng, mà một phần quan trọng còn thể hiện ở hoạt động của các tổ chức đảng, ở hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các đoàn thể và ở mỗi đảng viên.

Đồng thời, tiếp tục xây dựng, củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng ở vùng có đồng bào tôn giáo theo hướng đoàn thể hoá các giai cấp, các giới trong tôn giáo. Mỗi cấp đoàn thể phải có cán bộ chuyên sâu về công tác vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo, phải hiểu các tôn giáo mình phụ trách, đề ra những biện pháp vận động thích hợp nhằm tăng cường công tác phát triển đoàn viên, hội viên là tín đồ các tôn giáo. Kết hợp cùng chính quyền, các ban ngành chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào có đạo, giáo dục cho quần chúng nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.



3.2.3. Nâng cao hiệu quả của các phương pháp quản lý nhà nước đối với tôn giáo

- Phải xuất phát từ đặc thù khá đặc biệt của công tác tôn giáo (liên quan đến nhu cầu tâm linh, tình cảm, đức tin, sự kỳ vọng của con người, do đó nó liên quan đến mọi chính sách).

- Trong các mối quan hệ có liên quan, cần phải thấy mối quan hệ của tôn giáo đối với chính quyền là mối quan hệ cơ bản và phương pháp quản lý đặt ra là: phát huy thẩm quyền của chính quyền đến đâu là đủ để không phạm sai lầm, không buông lỏng.

- Các phương pháp quản lý nhà nước đối với tôn giáo được thi hành, một mặt, phải dựa trên luật pháp, trên chính sách; mặt khác, lại phải hết sức mềm dẻo. Đặc biệt phải chú ý đến yếu tố hợp lòng người, có tình, có lý.

- Phải kết hợp hài hòa các yếu tố chuyên môn, nghệ thuật, phương pháp để không gây ra ức chế, phản cảm, xóa thành kiến và quan trọng hơn là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của tín đồ chức sắc.

- Phải thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, vận động chức sắc các tôn giáo.

Bên cạnh những yếu tốt như đã trình bày trên, cần phải xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở đủ mạnh để đấu tranh chống lại những hành động phá hoại sự đoàn kết toàn dân, trong đó có lực lượng lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo. Về vấn đề này, Lênin đã nêu rõ: Đấu tranh chống lại các thiên kiến tôn giáo phải cực kỳ thận trọng. Ai làm tổn thương đến tình cảm tôn giáo thì người ấy sẽ gây một thiệt hại hớn..., nếu hành động thô bạo ta sẽ làm cho quần chúng tức giận. ở đây, lực lượng trong hệ thống chính trị là các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi... tập hợp trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam.

3.2.4. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh

Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập. Người coi đoàn kết là một vấn đề chiến lược của cách mạng, là mục tiêu, là động lực, là nhiệm vụ và là công tác hàng đầu của cách mạng. Đến nay tư tưởng đó đã trở thành chủ trương, chiến lược của Đảng ta. Từ góc độ tín ngưỡng tôn giáo, đó là khối đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân chính là thực hiện đoàn kết trên tất cả các mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.

Hiện nay tôn giáo nói chung và tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ít nhiều đang bị các thế lực phản động lợi dụng để thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm phá hoại công cuộc đổi mới, công cuộc xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, giàu đẹp. Vì vậy, đoàn kết tôn giáo ở đây là một bộ phận quan trọng trong đoàn kết toàn dân. Trước đây, hiện nay và sau này cũng vậy, vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Muốn thực hiện đoàn kết toàn dân phải thực hiện đoàn kết tôn giáo, ngược lại, đoàn kết tôn giáo sẽ góp phần làm tăng thêm sức mạnh khối đoàn kết toàn dân.

Để tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Phải tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn giáo và những người không theo tôn giáo cống hiến sức người, sức của vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



3.3. Kiến nghị

Đối với Trung ương:

- Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đối với hoạt động của các Hội đoàn tôn giáo, các hệ phái Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân, còn lúng túng, do chưa có quy định cụ thể của Chính phủ. Hiện nay Hội đoàn Công giáo và các hệ phái Tin lành tư gia đang phát triển mạnh và đi vào nhiều trường học, khu dân cư với phương thức hoạt động đa dạng nhằm lôi kéo tín đồ, phát triển đạo. Đề nghị Ban Tôn giáo của Chính phủ tiếp tục tổ chức các hội nghị chuyên đề liên quan như: quản lý các Hội doàn tôn giáo; các hệ phái Tin lành chưa được công nhận; quản lý Dòng tu; quản lý Hội đồng mục vụ Giáo xứ; xuất nhập cảnh của các nhân vật tôn giáo... để đề ra biện pháp quản lý sát hợp.

- Do chưa có Chi nhánh phía Nam của nhà xuất bản Tôn giáo, nên việc xin phép in ấn phẩm tôn giáo tốn rất nhiều thời gian, công sức và chi phí của các tổ chức tôn giáo. Đề nghị Ban Tôn giáo của Chính phủ và các ngành liên quan thành lập Chi nhánh xuất bản ấn phẩm Tôn giáo phía Nam.

Đối với địa phương:

- Phải làm cho cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các ngành, các đoàn thể nắm vững những quan điểm, nguyên tắc và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các tôn giáo, nhất là phải quán triệt ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của các tôn giáo trong tình hình mới. Cần tổ chức nhiều lớp tập huấn và tìm hiểu thực tế ở các cơ sở tôn giáo cho tất cả cán bộ chủ chốt các ngành và cán bộ làm công tác tôn giáo ở các phường, có như thế mới có lãnh đạo, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo tốt hơn.

- Khi giải quyết các vấn đề lớn có liên quan đến tôn giáo, cần phải thống nhất về quan điểm xử lý từ trong nội bộ, từ trên xuống dưới, mà quan điểm chung là phải kiên quyết về chủ trương nhưng phải hết sức thận trọng, mềm dẻo và tế nhị về phương pháp, tránh sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây bạo loạn.

- Cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách chu đáo cả về lý luận và thực tiễn. Bởi vì đối tượng chúng ta quản lý, chức sắc các tôn giáo đều là những nhà trí thức, có trình độ về thần học, hiểu biết khá sâu sắc triết học Mác-Lênin và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và cũng là đối tượng mà thế lực thù địch chú ý lợi dụng nhiều nhất. Vì vậy, cán bộ làm công tác tôn giáo ngoài các tiêu chuẩn chung, cần có năng lực công tác dân vận - vận động quần chúng, có kiến thức quản lý nhà nước về tôn giáo, linh động, nhạy bén trong xử lý tình huống. Đó là những cán bộ có năng lực và phẩm chất đạo đức để làm tốt công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.




KẾT LUẬN
Thành phố Hồ Chí Minh, từ lâu đã trở thành một đô thị lớn nhất nước và hiện nay quá trình đô thị hóa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Thành phố đã có những cố gắng lớn và đạt những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong tương lai, hàng loạt vấn đề liên quan đến phát triển và quản lý đô thị đang đặt ra khá gay gắt, như: nhu cầu phát triển nhanh, mạnh, bền vững về kinh tế, sự tăng trưởng dân số nhanh, nhu cầu cải thiện đời sống, nâng cao mức sống nhân dân, nhu cầu tôn giáo và tín ngưỡng của đông đảo nhân dân Thành phố … đang phải đối mặt với công tác quản lý Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của một đô thị văn minh và hiện đại.

Quản lý phải dựa trên một hệ thống thể chế, đặc biệt hệ thống pháp luật, chính sách cũng như hệ thống tổ chức thực thi pháp luật trên một số lĩnh vực quản lý nhà nước, như: quản lý đất đai, quản lý dân cư, quản lý việc bảo vệ môi trường và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố… phải ngày càng được hoàn thiện hơn.

Để quản lý hiệu quả còn đòi hỏi phải có một một đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ mới. Từ thực tiễn của thành phố cho thấy việc củng cố tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo còn chậm, không đồng bộ; đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhìn chung vẫn bất cập về chuyên môn, nghiệp vụ so với yêu cầu của công tác, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường. Có thể nói công tác quy hoạch cán bộ làm công tác tôn giáo nói chung còn thiếu tính chủ động và lâu dài.

Như vậy, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo đang diễn ra trên địa bàn thành phố là điều tất yếu và việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một vấn đề mang tính cấp thiết, nó xuất phát từ những thành tựu và bất cập của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu và hạn chế của quá trình quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế quản lý trong thời gian qua, tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong quan điểm, chủ trương và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; do đó, trong công tác quản lý quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo phải lấy yếu tố đồng thuận, lấy điểm tương đồng về mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước làm nền tảng kết nối đoàn kết đồng bào, chức sắc các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường vận động chức sắc các tôn giáo và đồng bào có đạo phát huy tinh thần yêu nước, thực hiện nghĩa vụ công dân; sống tốt đời, đẹp đạo. Phát huy hơn nữa vai trò, khả năng của các tổ chức tôn giáo trong các sinh hoạt xã hội, công tác từ thiện nhân đạo. Bên cạnh đó, phải tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là đại biểu của dân, thực hiện tốt chức năng giám sát, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những việc làm trái chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kiện toàn và sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh gọn, chuẩn hóa các chức danh cán bộ quản lý hành chính nhà nước từ cấp Thành phố đến đến cơ sở. Kiên quyết thay thế những cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức. Thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, giám sát để phát hiện những sai phạm, nhũng nhiễu của cán bộ công chức và các cơ quan công quyền, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung rà soát các thủ tục, quy trình giải quyết khiếu nại, khiếu tố; xin cấp phép xây dựng sửa chữa cơ sở thờ tự; xin xuất, nhập văn hóa phẩm tôn giáo; xin cấp phép hoạt động của các tôn giáo …Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo tại Thành phố.

Một trong những thành tựu của Thành phố trong thời gian qua là phát huy được truyền thống năng động, sáng tạo, hết sức coi trọng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, đủ sức ngăn chặn và kịp thời làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới.



Phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế vừa nêu, với những ưu thế vốn có của mình, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong thời gian tới, góp phần vào mục tiêu chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành một thành phố xã hội chủ nghĩa, phồn vinh, văn minh hiện đại, xứng đáng với danh hiệu cao quý: Thành phố Hồ Chí Minh – Thành phố Anh hùng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


  1. Annie Lennk- Marie France Toinel (1995), Thực trạng nước Mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.

  2. Thân Ngọc Anh (2004), ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống tinh thần của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học tôn giáo.

  3. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010.

  4. Ban Dân vận Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Báo cáo Tổng kết công tác Dân vận năm 2002 và chương trình công tác Dân vận năm 2003.

  5. Ban Dân vận Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Báo cáo Tổng kết công tác Dân vận năm 2003 và chương trình công tác Dân vận năm 2004.

  6. Ban Dân vận Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Báo cáo Tổng kết công tác Dân vận năm 2004 và chương trình công tác Dân vận năm 2005.

  7. Ban Dân vận Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Báo cáo Tổng kết công tác Dân vận năm 2005 và chương trình công tác Dân vận năm 2006.

  8. Ban Tôn giáo Chính phủ (2001), Các văn bản pháp luật quan hệ đến tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.

  9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2002), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định 26/CP-NĐ về các hoạt động tôn giáo.

  10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Văn bản pháp lệnh Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.

  11. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2000), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  12. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  13. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  14. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  15. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  16. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Báo cáo Tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo.

  17. Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Tổng số liệu chung về tôn giáo toàn Thành phố cuối năm 2005.

  18. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 01/2005 về một số công tác đối với Đạo Tin lành.

  19. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

  20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  25. Đảng Cộng sản Việt Nam (12/2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII, Đảng bộ Thành Phố Hồ Chí Minh.

  26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  27. Ngụy Đức Đông (2005), "Nhìn tôn giáo từ góc độ kinh tế", Nghiên cứu Tôn giáo (5).

  28. Mai Thanh Hải (1998), Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân.

  29. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Đề tài cấp nhà nước (2002), Xu hướng phát triển tôn giáo hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý.

  30. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Đề tài cấp Bộ (2004), Hội đoàn công giáo ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước hiện nay.

  31. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Danh mục đề tài luận án tiến sĩ (từ cuối năm 1987 đến 9/2004), Nxb Hà Nội.

  32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Trích tác phẩm C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  33. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo.

  34. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tập bài giảng lý luận về tôn giáo và chính sách về hoạt động tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lý luận chính trị.

  35. Học viện Hành chính quốc gia (2004), Giáo trình quản lý nhà nước về tôn giáo và dân tộc, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

  36. Hồ Trọng Hoài (2003), "Nét tương đồng gắn bó các tôn giáo trên đất nước Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (21).

  37. Lý Thị Bích Hồng (2003), "Tìm hiểu phương pháp đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận.

  38. Nguyễn Tấn Hùng (2003), "Quan điểm của Anhxtanh về quan hệ giữa tôn giáo và khoa học", Tạp chí Lý luận chính trị, (3).

  39. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội, Nxb Tôn giáo.

  40. Đỗ Quang Hưng (2003), "Những biểu hiện mới của vấn đề tôn giáo - dân tộc trong tình hình hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (2).

  41. Đỗ Quang Hưng (2005), "Vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (11).

  42. Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  43. Trần Hồng Liên (2002), "Đôi nét về đạo đức tôn giáo và ảnh hưởng của nó đối với cư dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (2).

  44. Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng (1996), Nxb Khoa học xã hội.

  45. Lê Đại Nghĩa (2002), "V.I.Lênin bảo vệ và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về tôn giáo", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (2).

  46. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), "Tôn giáo trong thời hiện đại: thế tục hóa hay phi thế tục hóa?", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (2).

  47. Nước Mỹ ngày nay (2004), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

  48. Nghị định số 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo.

  49. Nghị định số 22/2001/NĐ-CP về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc UBND các cấp.

  50. Nghị định số 22/2005/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

  51. Nghị quyết số 24-NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (1990).

  52. Nghị quyết 8B-NQ/BCT về tăng cường công tác vận động quần chúng của Đảng trong tình hình mới (1993).

  53. Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo (2003).

  54. Văn Đức Thanh (2005), "Vài ý kiến về vấn đề tôn giáo trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (1).

  55. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận về thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

  56. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

  57. Đặng Nghiêm Vạn (2003), "Bàn về tín đồ và tổ chức của một tôn giáo", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo.

  58. Viện Thông tin Khoa học - Xã hội (1998), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

  59. Viện Thông tin Khoa học - Xã hội (2003), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Tập 4, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

  60. Viện Thông tin Khoa học - Xã hội (2004), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

  61. William A.Degregorio (1995), 42 đời Tổng thống Hoa Kỳ, Cục Xuất bản, Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội.




tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương