LUẬn văn thạc sỹ


Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên thế giới và trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1990(1)



tải về 1.02 Mb.
trang2/7
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.02 Mb.
#4789
1   2   3   4   5   6   7

1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên thế giới và trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1990(1)

1.2.1. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Hoa Kỳ

Hiệp chủng quốc (The United States) là khối liên hiệp của nhiều bang Hoa Kỳ (50 bang) lập nên do Hiến pháp năm 1789. Thủ đô Hoa Kỳ là Washington D.C (viết tắt District of Columbia – quận thủ phủ Colombia). Mỗi bang có chính phủ riêng, thủ phủ riêng và trong mỗi bang lại có nhiều cơ quan chính quyền địa phương nhỏ hơn nữa như: quận, hạt, tỉnh, thị trấn (thành phố) và xã. Mỗi bộ phận chính trị nhỏ này đều được tự trị theo những khu vực đã được phân định rõ rệt. Hiến pháp của Hoa Kỳ quy định rõ những công việc giao phó cho Chính phủ liên bang. Các Hiến pháp tiểu bang có một số điểm khác nhau, nhưng nói chung đều theo các nguyên tắc của Hiếp pháp liên bang.

Chính quyền liên bang và tiểu bang phần lớn do hai đảng chính điều hành: Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ. Đảng Cộng hòa thường có chính sách bảo thủ trong khi đảng Dân chủ có chính sách cấp tiến. Một số đảng phái nhỏ hơn cũng hiện diện, nhưng không được sự ủng hộ của nhiều người. Cả hai đảng đều có sự ủng hộ của người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đa sắc tộc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa thường nhận được ủng hộ tinh thần và tài chánh từ các nhóm thương mại, các tín đồ sùng đạo Kitô giáo và người ở nông thôn, trong khi Đảng Dân chủ thường nhận được ủng hộ từ các công đoàn và các nhóm người thiểu số.

Hiến pháp Hoa Kỳ được xây dựng trên chủ thuyết phân quyền giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp. Điều 5 Hiến pháp cho phép những sửa đổi trong Hiến pháp (khi được thông qua bởi hai phần ba đa số của hai viện Quốc hội và được phê chuẩn của ba phần tư cơ quan lập pháp của các bang). Hiến pháp Hoa Kỳ được 13 bang phê chuẩn năm 1791, từ đó đến nay đã có 26 tu chính án được thông qua gọi chung là Tuyên ngôn Dân quyền (quyền thứ nhất là quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do kiến nghị để giải đáp mọi thắc mắc...) để bảo vệ công dân trước sự chuyên chế, nếu có, của chính quyền liên bang [64, tr.50].

Hoa Kỳ có diện tích 3.539.200 dặm vuông (9.759.450km²), dân số 280.562.489 người, đứng hàng thứ ba trên thế giới, sau Trung Quốc và ấn Độ. Là quốc gia đa sắc tộc. Trong đó người Mỹ da trắng gốc châu Âu chiếm 80%, người Mỹ da đen gốc Châu Phi chiếm 13%, người Mỹ gốc Châu á và các đảo Thái Bình Dương chiếm 4%, thổ dân da đỏ, người Eskimo và Aleut chiếm 1%, khoảng 12% người gốc Hispanic. Tuổi thọ trung bình khoảng 77 tuổi, Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển, GDP bình quân đầu người là 36.000 USD [47, tr.330]

Cư dân gốc trên lãnh thổ Hoa Kỳ là thổ dân Bắc Mỹ, nhưng chiếm đa số là những người nhập cư. Không có một tôn giáo nào có nguồn gốc hình thành ở Hoa Kỳ, nhưng phần lớn dân chúng là người Cơ đốc giáo, chủ yếu là Tin lành, nhưng cũng có những người Thiên chúa giáo La Mã.

Vào thời điểm thành lập (nền độc lập của Hoa Kỳ được tuyên bố vào năm 1776), Hoa Kỳ dường như không phải là mảnh đất màu mỡ cho tôn giáo. Nhiều nhà lãnh đạo đất nước – bao gồm cả George Washington, Thomas Jefferson và Benjamin Franklin - vốn không phải là tín đồ Cơ Đốc giáo, đã không thừa nhận uy quyền của Thánh kinh Cơ đốc giáo và chống lại các tôn giáo có tổ chức. Thái độ công chúng hoàn toàn lãnh đạm: năm 1776 chỉ có 5% dân chúng là con chiên nhà thờ. Tuyên ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 chưa nói đến tự do tôn giáo.

Sau hơn hai thế kỷ, kể từ đó, giờ đây tôn giáo là thể chế ngày càng được quan tâm hơn ở Hoa Kỳ, thu hút sự chú ý của đa số dân chúng. Vào năm 2004, phân bổ của các tôn giáo chính tại Hoa Kỳ là: Tin lành (54%), Công giáo La Mã (24%), Chính thống giáo Phương Đông (3%), Mormon (2%), Do thái giáo (2-3%), Hồi giáo (<2%), Phật giáo và ấn Độ giáo (0,3- 0,5%), không theo tôn giáo nào chỉ có 10%… [47, tr.330],

Thomas Jefferson coi tín ngưỡng hoàn toàn là một vấn đề cá nhân. Ông tán thành việc tách hẳn Giáo hội ra khỏi Nhà nước. Ông đã soạn thảo Luật tự do tôn giáo của bang Virginia (1786), trong đó có quy định: "Không một ai bị bắt buộc phải theo cố định một thứ tôn giáo nào... Tất cả mọi người đều có quyền tự do lựa chọn tôn giáo và có quyền dùng những lý lẽ của mình để bảo vệ ý kiến của mình về vấn đề tôn giáo" [64, tr.99]. Văn kiện luật này đã được dịch và xuất bản ở nước ngoài, mang lại cho Jefferson tiếng tăm khắp thế giới với danh hiệu "người chiến đấu cho quyền tự do tín ngưỡng" [61, tr.100].

Khi xem xét vấn đề tôn giáo ở Hoa Kỳ, chúng ta lại một lần nữa gặp phải vấn đề đặc biệt Mỹ. Nhà triết học Mỹ Paul Tillich cho rằng tôn giáo là "linh hồn của nền văn hóa". Douglas K.Stevenson trong tác phẩm "American life and Institutions" (tạm dịch: Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ) cho rằng đó là "một dân tộc được đặt dưới chúa".

Ngay từ khi nước Mỹ trở thành một quốc gia, người Mỹ đã phân tách một cách thận trọng nhà thờ và Nhà nước, tôn giáo và Chính phủ.

Nói chung, Hoa Kỳ là một quốc gia Kitô giáo, trên nhiều lĩnh vực, tôn giáo có vai trò khác với các xã hội khác, thể chế tôn giáo Hoa Kỳ có một số đặc điểm riêng:

- Tự do tôn giáo: Hoa Kỳ không có tôn giáo “chính thức”, thực ra Hiến pháp cấm bất kỳ sự thừa nhận chính thức hay hợp pháp nào cho rằng một tín ngưỡng đặc biệt này là “chân chính” hơn hay kém hơn so với một tín ngưỡng khác. Tất nhiên, ranh giới giữa tôn giáo và chính quyền không phải lúc nào cũng được phân định rõ ràng; trong một số trường hợp (đặc biệt liên quan đến người vị thành niên), nhà nước không can thiệp đến hoạt động tự do tôn giáo. Chẳng hạn, tòa án tỏ ra không mấy thiện cảm với những giáo phái đòi hỏi quyền uy tuyệt đối của Kinh Thánh để áp đặt cho trẻ em một nền giáo dục thuần túy tôn giáo, không cho chúng tiêm chủng hoặc điều trị bằng y tế hay đánh đập chúng tàn nhẫn. Tuy nhiên không tôn giáo nào bị tuyên bố là bất hợp pháp chỉ vì tín ngưỡng và cách hành đạo của nó.

- Quy mô tham gia tôn giáo: đa số người Mỹ dường như đều có liên quan tới tôn giáo. Cứ 10 người Mỹ thì có 7 người tham gia một tổ chức tôn giáo, trung bình một tuần chừng 43% dân số đến nhà thờ hoặc giáo đường Do thái.

- Tôn giáo là một giá trị: Tổng thống Eisenhower (nhiệm kỳ 1953-1961) từng tuyên bố rằng tin theo tôn giáo nào hoàn toàn không quan trọng, chừng nào anh hay chị còn đi theo tôn giáo đó. Đây là một quan điểm Mỹ đặc trưng, phản ánh giá trị chỉ dựa trên bản thân hành vi tín ngưỡng. Nhiều người Mỹ có xu hướng sử dụng tôn giáo chủ yếu cho mục đích xã hội hơn là cho mục đích tôn giáo, họ tìm thấy trong nhà thờ nguồn gốc cộng đồng và trong đức tin sự biện hộ cho những giá trị Mỹ về tình thân thiện, tinh thần tự lực, chủ nghĩa cá nhân, lao động chuyên cần… Có một giả thuyết văn hóa đầy ẩn ý rằng người Mỹ mộ đạo không nhất thiết phải đến nhà thờ hoặc giáo đường Do thái, nhưng ít nhất phải thể hiện lòng tin ở Chúa và những nguyên tắc tôn giáo.

- Sự đa nguyên tôn giáo. Hoa Kỳ có lẽ là xã hội có nhiều tôn giáo nhất trong lịch sử. Đa số các xã hội chỉ có một số tổ chức tôn giáo chính. Chẳng hạn, ở Canada, 90% dân số là người Cơ đốc giáo, một nửa số đó là người Công giáo, một nửa là người Tin lành và 3/4 người Tin lành thuộc về 2 giáo phái: Giáo hội Anh giáo và giáo hội Hợp nhất Canada (The United Church of Canada). Hoa Kỳ cũng có chừng 90% dân chúng theo đạo Cơ đốc giáo, nhưng giáo phái lớn nhất là giáo hội Công giáo chỉ có 28% tổng số tín đồ. Khoảng 54% người Mỹ là người Tin lành, nhưng Tin lành có nhiều giáo phái tới mức mà không giáo phái nào có thể có 1/10 tổng số tín đồ.

- Chấp nhận sự đa dạng. Người Mỹ chấp nhận sự đa dạng tôn giáo, đặc biệt giữa các giáo phái chính. Nói chung, những tổ chức này tránh những tranh cãi công khai về các vấn đề thần học bất đồng và hiếm khi cố gắng cải đạo trong tín đồ của nhau.

- Tôn giáo và các đặc điểm chủng tộc: ở Hoa Kỳ, tôn giáo không chỉ là tập hợp của đức tin và nghi thức, tôn giáo cũng có thể là nguồn gốc bản sắc cá nhân hay một nhóm người. Ví dụ rõ nhất là cộng đồng Do Thái ở Mỹ - một nhóm tộc người tập hợp cùng nhau nhờ một tôn giáo chung. Theo Công giáo cũng là một trong những đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt các nhóm người như những người Ba Lan với những người Mỹ khác. Nhà thờ là một thể chế quan trọng của người da đen, ở đó họ là nguồn gốc của sự đoàn kết và bản sắc cộng đồng từ thời nô lệ đến nay. Tôn giáo vẫn là một trong những thể chế kỳ thị chủng tộc nhất ở Mỹ. Trên thực tế, phần lớn các giáo đoàn hoàn toàn là người da trắng hoặc hoàn toàn là người da đen.

- Tôn giáo và các đặc điểm xã hội: Tín đồ của một số tổ chức riêng biệt có xu hướng tương quan với những đặc điểm xã hội khác biệt khác. Chẳng hạn, người Do Thái có thu nhập cao nhất trong những nhóm tôn giáo chính, tiếp theo là người của phái Tin lành theo chế độ giám mục (Episcopal), Tin lành Trưởng lão (Presbyterian)…

Thái độ chính trị - xã hội cũng liên quan đến sự hội nhập tôn giáo. Người Do thái, Công giáo và người Tin lành da đen xưa nay đa phần là người đảng Dân chủ, trong khi người Tin lành da trắng chia đều là người Dân chủ và người Cộng hòa

Từ lâu, quan hệ chính trị và tôn giáo đã là một vấn đề của đời sống đất nước ở tất cả các bang. Song, cho đến khi Hiến pháp Liên bang ra đời, tức năm 1787 (sau khi tuyên bố độc lập 12 năm), ở cấp Liên bang (toàn quốc) quy chế của các giáo hội chưa được xác định. Bốn năm sau (1791), dưới áp lực của một số bang (Virginia, Maryland, Pensylvania), bất chấp sự dè dặt của các bang khác (Massachusetts…), sự vận động của những giáo hội nhỏ và thái độ trung lập đối với tôn giáo của thực thể liên bang, bản Tuyên ngôn Nhân quyền (tức bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp Mỹ lần thứ nhất) mới xác định nguyên tắc mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo ở Điều 1 như sau: “Quốc hội sẽ không thảo một đạo luật nào để thiết lập một tôn giáo hoặc để cấm đoán tự do tôn giáo, để hạn chế tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí, hoặc hạn chế quyền của dân chúng hội họp một cách hòa bình và đưa lên Chính phủ lời thỉnh cầu giải quyết những nỗi bất bình của họ” [61, tr.297].

Theo Tổng thống Jefferson, điều khoản này được soạn thảo để tạo ra “bức tường phân tách nhà thờ và nhà nước”. Như vậy, sự tự do tôn giáo ở Mỹ bao hàm hai nội dung có tính nguyên tắc:

- Nhà nước phân tách với nhà thờ.

- Nhà nước bảo đảm tự do hành đạo.

Tổng thống Jonh Tyler là tín đồ tân giáo. Ông chấp nhận mọi tín ngưỡng, song ông bác bỏ những tín đồ cố chấp xen lẫn chính trị vào tôn giáo. Tyler tuyệt đối tin rằng:

Nhà thờ và nhà nước là hai vấn đề hoàn toàn riêng biệt. Đó là tôn giáo và chính trị, nếu bị đan xen nhau thì sẽ là một mối nguy cho mọi người. Các quan chức Chính phủ không được can thiệp vào các vấn đề thuộc tôn giáo cũng như các tăng lữ không được thuyết giáo các vấn đề chính trị, kể cả các vấn đề thuộc về đạo lý như chế độ nô lệ và sự bình đẳng của con người [64, tr.298].

Các sách giáo khoa về hệ thống chính trị Mỹ giải thích rằng, điều sửa đổi của Hiến pháp hàm ý:

- Không một chính phủ bang hay liên bang được thiết lập một giáo hội, một tôn giáo riêng biệt nào đó làm tôn giáo chính thức của nước Mỹ.

- Không được thông qua luật trợ giúp một tôn giáo hoặc tất cả các tôn giáo hoặc tỏ ra thích một tôn giáo nào đó so với các tôn giáo khác.

- Không một lực lượng nào được gây ảnh hưởng đối với việc một người nào đó muốn đến với hoặc từ bỏ một giáo hội trái với nguyện vọng của người đó hoặc ép buộc họ tuyên bố tin hay không tin bất kỳ một tôn giáo nào khác.

- Không ai có thể bị trừng phạt vì sự vui sướng hay sự trung thành với niềm tin tôn giáo hay không tin tôn giáo, vì việc đến hay không đến nhà thờ.

- Không một khoản thuế nào dù lớn hay nhỏ có thể cưỡng bức để trợ giúp bất kỳ một hoạt động tôn giáo nào, hoặc một tổ chức tôn giáo nào, dù nó có thể được kêu gọi hoặc nó được chấp thuận để dạy và thực hành một tôn giáo.

- Không một chính phủ bang nào hoặc chính phủ liên bang có thể công khai hoặc bí mật tham gia vào các công việc của bất cứ một tổ chức tôn giáo nào và ngược lại.

Như vậy, Hiến pháp không bảo đảm sự độc quyền về pháp lý và tinh thần cho bất kỳ một tín ngưỡng nào. Tất cả giáo hội đều bình đẳng trước thể chế liên bang [39, tr.354].

Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, Nhà nước tách rời tôn giáo không có nghĩa là nhà nước không lấy niềm tin tôn giáo làm nền tảng. D. Eisenhower, cựu Tổng thống Hoa Kỳ (nhiệm kỳ 1953 - 1961), từng tuyên bố rằng: “hình thái chính phủ của chúng ta chỉ có nghĩa nếu nó lấy nền tảng ở một niềm tin tôn giáo sâu sắc. Bất kể niềm tin đó là cái gì, cứ có nó là được”. Đã có lần ông nói rằng: "Tất cả mọi chính quyền tự do đều đặt một mục đích cuối cùng là chuyển được niềm tin từ Chúa sang thế giới chính trị" [61, tr.971]. Các quan tòa trước khi làm nhiệm vụ đều phải tuyên thệ, các Tổng thống khi nhậm chức đều phải đặt tay lên Kinh thánh tuyên thệ trung thành với quốc gia, “một dân tộc dưới sự che chở của Thượng đế”… Hiến pháp (Điều II) quy định rằng Tổng thống khi đắc cử phải đọc Lời tuyên thệ (hoặc lời khẳng định) sau đây để được tấn phong làm Tổng thống: "Tôi long trọng xin thề (xin khẳng định) sẽ trung thành thực thi cương vị Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, và với tất cả khả năng có thể của mình sẽ bảo vệ và gìn giữ Hiến pháp của đất nước” (thông lệ có quy định phải nói thêm câu: “xin Chúa giúp con” vào cuối lời tuyên thệ của Tổng thống đắc cử, với bàn tay trái đặt trên cuốn Thánh kinh khi đọc Lời tuyên thệ, bàn tay phải giơ hơi cao một chút).

Theo tinh thần điều sửa đổi Hiến pháp thứ nhất, tòa án tối cao ban hành nhiều quyết định làm cơ sở cho những lý giải có hiệu lực hiện nay (thông qua việc xét xử các vụ kiện).

• Tín ngưỡng là hợp pháp, không được dùng vào những mục đích gian lận hay tội phạm (vụ Canwell chống Connecticut,1940).

• Chính quyền không được đánh giá tính chất có căn cứ hay không của các học thuyết tôn giáo (vụ United States chống Ballard,1944).

• Chính quyền không được bắt buộc các giáo phái hòa bình phải tham gia vào các nghi lễ yêu nước (vụ West Virginia chống Banette,1943 và vụ Weslsh chống United States,1970).

• Không được đòi hỏi những người trả lương từ các quỹ công phải có một cam kết tôn giáo (vụ Torcaso chống Wasins và vụ Mc. Daniel chống Paty,1978).

• Không được bắt buộc trẻ em ở các trường học phải thực hành tôn giáo. Ngày 17 tháng 6 năm 1963 Tòa án tối cao tuyên phán với tỷ lệ 8/1 rằng các luật lệ đòi hỏi phải đọc Thánh kinh hay Lời cầu nguyện Chúa Trời trong các trường công lập là vi hiến (vụ Engel chống Vitale, năm 1962 và vụ Wallace chống Jaffree,1985).

• Tòa án tối cao đã quyết định vào này 27 tháng 6 năm 2002, với biểu quyết 5/4, rằng việc tách biệt giữa Nhà thờ và Bang bằng biên nhận học phí được thu công khai có thể được sử dụng ở các trường tôn giáo là không vi phạm (vụ Zelman chống lại Simmons – Harris) [47, tr.111].

Hoa Kỳ là quốc gia có quy chế tự do tín ngưỡng rộng rãi nhất ở phương Tây, thế nhưng cần phải lưu ý rằng mọi hệ phái tôn giáo đều phải hội đủ 3 tính chất pháp lý cơ bản sau đây: Giấy phép hoạt động; hồ sơ khai thuế; tuân thủ quy chế an ninh.

Như vậy, điều tuyệt đối không thể vượt qua là Chính phủ không được miễn thuế cho các nhà thờ và trường học của nhà thờ hoặc cung cấp sách vở và các dụng cụ học tập khác, hoặc vận chuyển học sinh của họ. Một số mặt giáo dục tôn giáo đã nhận được sự hỗ trợ của chính phủ, số khác thì không thể được. Quỹ công chi cho ăn trưa, những thử nghiệm theo tiêu chuẩn và chỉ dẫn chữa trị bệnh không liên quan đến phần tôn giáo trong chương trình đào tạo đều được phép. Tòa án tối cao đã vạch ra tiêu chuẩn để quyết định những vấn đề này:

• Hỗ trợ của Chính phủ phải rõ ràng, chứng minh được tính thế tục.

• Không được liên quan đến việc đề cao hay cấm đoán tôn giáo.

• Phải tránh dính líu thái quá của Chính phủ với một tôn giáo

Thể chế Hiến pháp là một nhân tố khiến cho tôn giáo trở thành một việc hoàn toàn mang tính cá nhân, sự tách rời nhà thờ với nhà nước không ngăn cản cá nhân hoạt động với tư cách cá nhân, hội đoàn trong các hoạt động chính trị, xã hội, kinh tế. Tôn giáo vẫn tác động đến đời sống xã hội ở 3 cấp độ:

+ Thông qua chức sắc trong nhà thờ, các bậc giáo phẩm, những nhân vật nắm quyền điều khiển cả một hệ thống rộng lớn gồm các cơ quan văn hóa, giáo dục, từ thiện, cứu tế.

+ Thông qua các nhà trí thức thần học, các nhà truyền giáo giảng đạo, các phương tiện truyền thông đại chúng.

+ Thông qua các họ đạo, xứ đạo ở địa phương.

Tóm lại, hoạt động tôn giáo ở Hoa Kỳ được xem là một hoạt động riêng tư, Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của giáo hội. Đây là một cơ sở khiến cho tôn giáo Mỹ mang tính đa nguyên, nước Mỹ ngày càng trở thành “một siêu thị tôn giáo”. Tuy nhiên, cần thấy rằng ở đây các giáo phái Tin lành chiếm vị trí nổi bật số một so với các giáo phái khác. Tin lành ở Mỹ phát triển mạnh hơn các đạo khác như Công giáo và Do thái là do tính mềm dẻo, dễ thích nghi hơn, đồng thời cũng do nó mang tính thế tục hơn, không lên án sự thành đạt mà còn khuyến khích người ta theo đuổi chúng. Tính đa dạng tôn giáo ở Mỹ gắn chặt với tính đa dạng của đạo Tin lành thể hiện ở chỗ nó có rất nhiều giáo phái, giáo hội. Đạo Công giáo không linh hoạt được như vậy. Mỗi giáo hội chủ yếu mang tính địa phương, tự trị và ngay trong những giáo hội có tổ chức nhất, sự chỉ đạo thống nhất chỉ là tương đối. Khác với Công giáo mang tính đồng nhất, ở đây cùng một đạo mà có muôn ngàn nhánh và tín ngưỡng khác nhau. Các giáo hội giáo phái rất gắn với đời thường, chúng đều “hướng về kiếp này chứ không phải kiếp sau” (Max Lerner), “các giáo sĩ Hoa kỳ không hề muốn con chiên chỉ chú mục vào kiếp sau, họ sẵn lòng dành phần trái tim để lo việc hiện tại, có vẻ như họ xem của cải trên đời là những thứ tuy thứ yếu nhưng rất quan trọng” (De Tocquevillle) [39, tr.360]. Mỗi tín hữu không có sự ràng buộc nào chặt chẽ với một giáo hội; khi thay đổi địa vị xã hội hoặc nơi ở, họ sẵn sàng chuyển từ dòng đạo này sang dòng đạo khác. Các tôn giáo khác cũng có thể có sự linh hoạt này; đối với người theo đạo Tin lành, việc đổi đạo thuận lợi, vì họ chủ trương giáo hội toàn thế giới.

Với những đặc điểm trên, đạo Tin lành được các giới cầm quyền ở Hoa Kỳ, bằng những con đường rất khác nhau và rất tinh vi, được sử dụng như một công cụ của chính sách đối ngoại. Trong cuộc vận động tranh cử vào năm 2004, ứng cử viên Tổng Thống George W.Bush đã tuyên bố rằng: "Tự do không phải là món quà của Mỹ cho thế giới. Nó là món quà của Chúa Quyền năng ban cho mỗi người nam và người nữ trên thế gian này” [64, tr.288]. Như vậy, rõ ràng nhân vật cao cấp nhất này của chính quyền Mỹ còn muốn vượt cả biên cương quốc gia mà vận dụng nội dung tôn giáo vào đời sống của toàn nhân loại.

Từ những nội dung trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Hoa Kỳ là một nước mới lập quốc chưa đầy 300 năm, nhưng có một truyền thống tín ngưỡng nên là mảnh đất mầu mỡ của sự phát triển tôn giáo, Hiện nay, tôn giáo ở Hoa Kỳ là một lực lượng có tiềm lực vật chất lớn, một nhân tố hình thành nền văn hóa Mỹ và có ảnh hưởng quan trọng tới xã hội.

- Hoa Kỳ chủ trương “thế quyền” và “giáo quyền” phải tách rời nhau (theo Tu chính án số 1 của Hiến pháp Hoa Kỳ). Sự tách rời giữa “Nhà nước và Nhà thờ" ở Hoa Kỳ không hàm ý Nhà nước hạn chế hoạt động của Nhà thờ vì niềm tin tôn giáo mà chính là để đảm bảo cho sự tự do tôn giáo được thực hiện; đồng thời, Nhà nước phải giữ tính trung lập của mình, không can thiệp vào công việc nội bộ của các giáo hội, giáo phái.

- Hoa Kỳ được hình thành bởi di dân, tồn tại bởi di dân và lớn mạnh bởi di dân nên mang một sắc thái đa văn hóa, đa tôn giáo. Tính đa nguyên và tính linh hoạt là một trong những đặc trưng bao trùm của các giáo hội, giáo phái các tôn giáo khác nhau ở Mỹ, điển hình là đạo Tin lành có hơn 300 hệ phái (khác với tôn giáo của các nước khác).

- Các tôn giáo đặc trưng của Mỹ có tính toàn cầu, đặc biệt là Tin lành. Những phương hướng truyền bá của nó trùng hợp với phương hướng chung của Nhà nước Mỹ, từ việc mở rộng ảnh hưởng ở lục địa Bắc Mỹ cũng như ở nước ngoài.

Hoa Kỳ hiện là đối tác quan trọng của Việt Nam, kể từ Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết. Đặc biệt từ sau chuyến thăm có tính lịch sử của Thủ tướng Việt Nam đến Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quan hệ Việt - Mỹ mở ra một trang mới không chỉ về quan hệ kinh tế mà trên tất cả các lĩnh vực. Để chủ động hội nhập, chúng ta phải có sự hiểu biết về nhiều mặt: lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của các nước trên thế giới (trong đó có Hoa Kỳ) … Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

1.2.2. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc

Trung Quốc có diện tích gần 9,6 triệu km², dân số trên 1,3 tỷ người. Trung Quốc hiện có 5 tôn giáo lớn, đó là Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Công giáo và Tân giáo (Tin lành). Ngoài ra, một số người còn tin theo Đông chính giáo và Shaman giáo. Trung Quốc có khoảng trên 100 triệu tín đồ tôn giáo, có nghĩa là cứ khoảng trên 10 người lại có 1 tín đồ. Tín đồ gồm từ những người trẻ tuổi đến những trung niên, lão niên; gồm tất cả các thành phần xã hội từ nông dân, công nhân đến trí thức. Trung Quốc là một đất nước có nhiều dân tộc (56 dân tộc).

Những khu vực mà 55 dân tộc thiểu số sinh sống – chủ yếu là các vùng cao nguyên miền núi và biên giới – trùm lên trên 60% lãnh thổ đất nước. Các khu vực người Tạng, người Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ và người Thái – tất cả đều là tín đồ tôn giáo – cư trú trên 50% lãnh thổ. Trong các dân tộc thiểu số, ảnh hưởng của tôn giáo rất sâu rộng. Do đó, vấn đề tôn giáo thường xuyên đan xen với vấn đề dân tộc. Trừ Đạo giáo, tất cả các tôn giáo lớn ở Trung Quốc đều được truyền từ ngoài vào [60, tr.54].

Vào cuối những năm 60, đầu những năm 70 thế kỷ XX, nhìn chung tôn giáo ở Trung Quốc không được phép tồn tại. Cuộc cách mạng văn hóa khởi đầu năm 65 đã biến quyền tự do tín ngưỡng mà Hiến pháp thừa nhận trở thành vật hy sinh cho nhiệm vụ tiêu diệt “4 lỗi thời” (văn hóa lỗi thời, phong tục lỗi thời, thói quen lỗi thời, tư duy lỗi thời). Tháng 8 năm 1969, tạp chí Hồng kỳ của UBTW Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng tuyên bố chính thức đầu tiên về tôn giáo từ khi “cách mạng văn hóa” bắt đầu, trong tuyên bố có viết: "Chúng ta phải đấu tranh với tôn giáo - đó là điều sơ đẳng của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, và vì vậy, cũng là điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác … Chủ nghĩa cộng sản khoa học và tôn giáo đối kháng nhau" [60, tr.80]. Tất cả mọi giáo phái đều bị giáng đòn đau. Nhà nước đã biểu thị thái độ bất hợp tác về chính trị với các cộng đồng tôn giáo bằng cách cấm các tổ chức tôn giáo hoạt động và xuất bản ấn phẩm của mình. Tháng 12 năm 1978, Hội nghị toàn thể lần thứ 3 của UBTW Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lên án hành vi của “cách mạng văn hóa”, những năm 80 thế kỷ XX, các cơ quan lập pháp và hành pháp của Nhà nước Trung Quốc đã có những bước đi thực tế nhằm giảm bớt hậu quả tai hại của “cách mạng văn hóa” trong lĩnh vực tôn giáo. Nhà nước cấp kinh phí xây dựng và sửa chữa các tụ điểm thờ tự nổi tiếng, thực hiện chính sách “dùng tôn giáo kích thích du lịch”. Nhiều chùa, tu viện được trùng tu và mở cửa đón khách tham quan, tạo nguồn kinh tế, công ăn việc làm cho xã hội… Tất cả các tôn giáo lớn đều có các tổ chức và các thiết chế yêu nước riêng của mình, xuất bản các tạp chí riêng của mình.

- Phật giáo có Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc với tạp chí Pháp âm (tiếng nói của Phật)

- Đạo giáo có Hiệp hội Đạo giáo Trung Quốc với tạp chí Đạo giáo Trung Quốc.

- Hồi giáo có Hiệp hội Hồi giáo Trung Quốc với tạp chí Người Hồi giáo ở Trung Quốc.

- Công giáo có Hiệp hội Công giáo yêu nước Trung Quốc và Uỷ ban Hành chính Toàn quốc Giáo hội Công giáo Trung Quốc với tạp chí Công giáo, bên cạnh đó còn có Liên đoàn Giám mục Công giáo Trung Quốc.

- Tân giáo có Hiệp hội Tân giáo Trung Quốc và ủy ban Phong trào Tam tự yêu nước của giáo hội Tân giáo yêu nước với tạp chí Thiên phong (Phúc âm) [63, tr.52].

Từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa, các vấn đề tôn giáo thường xuyên bị cuốn hút vào các cuộc giao lưu với quốc tế. Sự giao lưu này góp phần tăng cường tình hữu nghị với các tôn giáo nước ngoài và duy trì hòa bình thế giới. Điều này đương nhiên có tác động tới các giới tôn giáo bên trong của Trung Quốc, làm đậm thêm tính chất quốc tế của các tôn giáo Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới XHCN. Tuy nhiên, tính phức tạp của tôn giáo trong thời kỳ XHCN còn thể hiện qua thực tế là một số người có thể lừa gạt quần chúng và tiến hành các hoạt động phi pháp dưới cái vỏ bọc tôn giáo. Một số thế lực tôn giáo thù địch ở nước ngoài cũng lợi dụng tôn giáo để xâm thấu xã hội Trung Quốc và kích động nhân dân gây rối, làm tổn hại ổn định xã hội.

Tách khỏi quyền lực chính trị, khỏi ngành tư pháp và giáo dục, tôn giáo đã thực sự trở thành vấn đề riêng tư của các công dân. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước Trung Quốc xác định, trong thời kỳ mới XHCN, tôn giáo có 5 tính chất cơ bản - đó là tính lâu dài, tính quần chúng, tính dân tộc, tính quốc tế và tính phức tạp. Với tinh thần coi trọng công tác tôn giáo, ngày 8 tháng 2 năm 1980, Ban Bí Thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nghe Bộ Mặt trận Thống nhất Trung ương ĐCSTQ, Cục Tôn giáo Quốc vụ viện báo cáo về tình hình công tác tôn giáo. Ngày 31 tháng 3 năm 1982, sau khi đã trưng cầu ý kiến của nhiều người trong và ngoài Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ chính thức ban hành Văn kiện “Quan điểm cơ bản và chính sách cơ bản về vấn đề tôn giáo thời kỳ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”, mang số hiệu “Văn kiện số 19” (Hội nghị Trung ương III, khóa XI, ĐCSTQ). Nội dung văn kiện gồm 12 phần, tổng kết những kinh nghiệm lịch sử - cả mặt thành công và mặt sai lầm - trong công tác tôn giáo từ ngày Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập; trình bày quan điểm cơ bản và chính sách cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc về vấn đề tôn giáo là “tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng tôn giáo”.

Văn kiện nêu rõ nội dung của “tự do tín ngưỡng tôn giáo” là:

Người công dân vừa có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo vừa có quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo, cũng có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo khác; trong cùng một tôn giáo thì có quyền tự do theo giáo phái này, cũng có quyền tự do theo giáo phái kia; có quyền tự do trước đây không theo đạo nay theo đạo, có quyền tự do trước đây theo đạo nay không theo đạo nữa [60, tr.59].

Đối với chức sắc tôn giáo, văn kiện xem “tranh thủ, đoàn kết và giáo dục nhân sĩ tôn giáo, trước tiên là các nhân viên chức sắc của các tôn giáo, là nội dung quan trọng trong công tác tôn giáo của Đảng, cũng là điều kiện tiền đề cực kỳ quan trọng của việc quán triệt chấp hành chính sách tôn giáo của Đảng”.

Văn kiện chỉ rõ: “Điểm xuất phát và cái đích phải đạt đến” của công tác tôn giáo là thu hút, tập trung ý chí và lực lượng của quần chúng nhân dân có đạo “vào một mục tiêu chung là xây dựng Tổ quốc giàu mạnh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa”.

Văn kiện xác định, người đảng viên Cộng sản là người vô thần. Chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng là để nói với công dân, chứ không hề thích hợp với đảng viên Cộng sản. Một người đảng viên Cộng sản khác với một người công dân bình thường, họ là thành viên của chính Đảng mácxít, phải là người vô thần, chứ không thể là người hữu thần. Đảng viên không được theo đạo, không được tham gia vào hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, ở một số dân tộc thiểu số có đặc điểm là hầu như cả dân tộc đều theo một tín ngưỡng tôn giáo. Việc chấp hành quy định này, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế, chọn bước đi thích hợp, không làm một cách giản đơn. Khi phát triển đảng viên mới, cần nắm chắc, phàm là những người một lòng tin đạo, có tình cảm tôn giáo sâu nặng thì không nên miễn cưỡng thu nạp.

Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm căn bản cho việc xử lý tốt vấn đề tôn giáo. Công tác tôn giáo là bộ phận cấu thành quan trọng của công tác Mặt trận và công tác quần chúng của Đảng, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cần phải kiện toàn và tăng cường cơ cấu tổ chức ban ngành công tác tôn giáo của Chính phủ; phải làm cho các cán bộ công tác tôn giáo được học tập một cách có hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác về tôn giáo và chính sách cơ bản của Đảng về vấn đề tôn giáo, liên hệ mật thiết với quần chúng tín đồ và nhân sĩ tôn giáo.

Cần nỗ lực xây dựng cơ cấu nghiên cứu, giảng dạy tôn giáo ở bậc đại học; nghiên cứu vấn đề tôn giáo trên lập trường của chủ nghĩa Mác. Đây là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được của việc xây dựng đội ngũ lý luận của Đảng.

Văn kiện số 19 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là văn kiện có tính chất cương lĩnh về vấn đề tôn giáo thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng tỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong nhận thức và xử lý thực tiễn tôn giáo vô cùng phức tạp của Trung Quốc đã tiến thêm một bước kết hợp đúng đắn quan điểm tôn giáo mácxít với thực tế vấn đề tôn giáo Trung Quốc. Sự kết hợp này không chỉ làm cho công tác tôn giáo giai đoạn đầu chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc đi vào con đường đúng đắn, mà còn đóng góp phát triển thêm một bước quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác.

Xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, trong đó có tình hình tôn giáo, và đặc biệt là căn cứ vào 5 tính chất nói trên của tôn giáo trong thời kỳ XHCN, Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đã đề ra chính sách tôn giáo với tư tưởng xuyên suốt là tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tháng 12 năm 1982, kỳ họp lần thứ 5 khóa V của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn Trung Quốc đã thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở Hiến pháp 1954, Hiến pháp năm 1982 đã nâng chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng CSTQ lên thành một trong những nội dung lớn, căn bản của Hiến pháp nhà nước; trở thành bảo đảm về căn cứ pháp luật cho sinh hoạt tôn giáo của đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý cho việc quản lý vấn đề tôn giáo ở Trung Quốc. Điều 36, Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định: Công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có tự do tín ngưỡng tôn giáo. Bất cứ cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và cá nhân nào cũng không được cưỡng chế công dân theo đạo hoặc không theo đạo, không được kỳ thị công dân theo đạo và không theo đạo. Nhà nước đảm bảo các hoạt động tôn giáo bình thường. Bất cứ ai cũng không được lợi dụng tôn giáo tiến hành phá hoại trật tự xã hội, làm tổn hại sức khỏe thân thể của nhân dân, làm trở ngại hoạt động của chế độ giáo dục Nhà nước. Đoàn thể tôn giáo và hoạt động tôn giáo không chịu sự chi phối của thế lực nước ngoài [60, tr.60].

Trong công cuộc xây dựng hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đề ra 4 nguyên tắc cơ bản cần nhất quán tuân thủ, đó là kiên trì con đường XHCN, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Bốn nguyên tắc cơ bản này không mâu thuẫn với chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo. Trong chính sách tôn giáo của mình, Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc độc lập tự trị. Có nghĩa là các tôn giáo ở Trung Quốc hoàn toàn có quyền tự do hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Trung Quốc mà không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật nào từ bên ngoài. Mọi tổ chức tôn giáo được khuyến khích thiết lập các mối liên hệ hữu nghị với các đối tác của mình ở nước ngoài theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau và bình đẳng, với điều kiện các đối tác đó tôn trọng Hiến pháp và luật pháp Trung Quốc cùng nguyên tắc độc lập và tự trị của các nhóm tôn giáo ở Trung Quốc.

Các tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc được quyền tiếp nhận viện trợ nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, miễn là chúng không kèm theo điều kiện và không can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc. “Sách Trắng về tự do tín ngưỡng ở Trung Quốc” do Quốc Vụ Viện công bố năm 1997 đã nhắc lại quan điểm cho rằng “tôn giáo cần phải thích nghi với xã hội mà ở đó nó đang được thịnh hành”, tôn giáo “cần phải do pháp luật quy định và phải thích nghi với xã hội và văn hóa”. Chiếu theo những nguyên tắc này, Chính phủ kiên quyết trừng phạt những tôn giáo và những tín đồ tôn giáo nào “gây nguy hại nghiêm trọng đến cuộc sống bình thường và đến các hoạt động sản xuất của nhân dân”, hoặc “gây nguy hại nghiêm trọng đến xã hội và lợi ích chung”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước Trung Quốc, thực tiễn công tác tôn giáo ở Trung Quốc thời kỳ mới đã có những tiến triển rõ rệt, đã thực hiện được một số điểm sau:

- Tăng cường đội ngũ làm công tác tôn giáo. Ngày 22 tháng 2 năm 1998, Cục Tôn giáo Quốc Vụ viện thành lập Trung tâm Bồi dưỡng Cán bộ công tác tôn giáo.

- Về xây dựng, kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo, đến cuối năm 1995, đã có 30 tỉnh, thành phố trực thuộc thiết lập cơ cấu công tác tôn giáo của chính quyền; 410 khu, châu, thành phố có cơ cấu công tác tôn giáo, toàn quốc có 1551 huyện có cơ cấu công tác tôn giáo, tổng số biên chế cán bộ là 3053 người. Nói chung, đã hình thành một mạng lưới quản lý tôn giáo của chính quyền từ trên xuống dưới.

- Về xây dựng các văn bản pháp chế: Với tinh thần quán triệt toàn diện chính sách tôn giáo, tập trung nổi bật vào quản lý tôn giáo theo pháp luật, Quốc vụ viện đã ban hành 2 bản pháp quy hành chính tôn giáo: ngày 31 tháng 1 năm 1994, Quốc Vụ viện ban hành sắc lệnh số 144, 145. Thủ tướng Lý Bằng ký, công bố hai văn bản pháp quy: “Quy định quản lý hoạt động tôn giáo của người nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” và “Điều lệ quản lý việc đăng ký các cơ sở hoạt động tôn giáo”. Đây là hai văn bản pháp quy hành chính quan trọng để Chính phủ quản lý tôn giáo theo pháp luật. Cục Tôn giáo Quốc vụ viện đã ban hành 3 văn bản: “Biện pháp thực thi quản lý đăng ký đoàn thể xã hội “ (6/5/1991), “Biện pháp đăng ký cơ sở hoạt động tôn giáo” (3/4/1991), “Biện pháp kiểm tra hàng năm các cơ sở hoạt động tôn giáo” (29/7/1996)” [39, tr.267-268].

Chính phủ Trung Quốc tỏ ra hết sức cởi mở trong chính sách đối ngoại về tôn giáo. Theo quy định của Quốc vụ viện về quản lý hoạt động tôn giáo của người nước ngoài, hiện nay ở Trung Quốc họ không chỉ có quyền tham gia sinh hoạt tôn giáo ở các cơ sở thờ tự của Trung Quốc (Điều 4), mà còn có quyền giảng đạo như trong Điều 3 sau đây: "Được lời mời của các đoàn thể tôn giáo ở các cấp tỉnh, khu tự trị, thị hạt trực thuộc, người nước ngoài có thể giảng kinh, giảng đạo ở các cơ sở hoạt động tôn giáo ở Trung Quốc" [42, tr.69].

Tuy nhiên, văn bản này cũng có những điều khoản để ngăn chặn sự can thiệp của các thế lực chính trị tôn giáo bên ngoài như Điều 8 và Điều 9:
"Xử lý trách nhiệm hình sự theo pháp luật Trung Quốc với người nước ngoài phạm pháp khi thực hiện các hoạt động tôn giáo ngoài quy định" [42, tr.70].

Trong “Văn kiện 19” việc giáo dục đội ngũ tu sĩ mới về mặt ý thức được coi là nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước. Văn kiện nêu rõ ý nghĩa quyết định của việc “đào tạo và giáo dục có kế hoạch thế hệ tu sĩ yêu nước mới cho diện mạo tương lai của các tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc”.

Từ những nội dung trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở trung Quốc được thực hiện trong thời gian qua ở Trung Quốc đã đạt được nhiều kết quả; những sai lầm, tả khuynh trong thời kỳ “cách mạng văn hóa” được khắc phục; các quyền của công dân Trung Quốc trong việc được hưởng tự do tôn giáo đã được tôn trọng và bảo vệ; đông đảo tín đồ tôn giáo được hưởng một đời sống tôn giáo bình thường. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những tình hình phức tạp mới trong đời sống tôn giáo Trung Quốc cũng đang xuất hiện, đặc biệt trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Xét về mặt tổng thể, tôn giáo có bước phát triển nhanh, ảnh hưởng xã hội của tôn giáo mạnh lên rõ rệt, số tín đồ tăng nhanh, một số tôn giáo như tín đồ Hồi giáo lên đến 18 triệu người, tín đồ Phật giáo Tây Tạng 7,5 triệu người, tín đồ Phật giáo thượng tọa Vân Nam gần 2 triệu người. Có tôn giáo, như Công giáo tuy thể chế nhập đạo khá chặt chẽ nhưng số lượng tín đồ vẫn phát triển, đã đạt trên 4 triệu người. Đặc biệt, gần 20 năm trở lại đây, Tân giáo (Tin lành) phát triển rất nhanh, từ 700.000 người khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới thành lập đã tăng lên đến trên 10 triệu người. Bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của một số tôn giáo lạ …

Trung Quốc cải cách mở cửa trước Việt Nam 10 năm. Những gì xã hội Trung Quốc đang đối mặt, nhất là trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo có thể đang và sẽ diễn ra ở Việt nam. Do đó, nghiên cứu chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

1.2.3. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1990

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí nằm ở Khu vực Đông Nam á có 3 mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc xâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt), đều lưu giữ những hình thức tôn giáo tín ngưỡng riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ Mẫu là tục thờ của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thủy (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.

Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Công giáo, Tin lành; có những tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai; có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định, có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.

Ước tính hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo lớn đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số, cụ thể:

- Phật giáo gần 10 triệu tín đồ (những người quy y tam bảo) có mặt hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, TP Cần Thơ.

- Công giáo: hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như: Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh long, An Giang, TP Cần Thơ.

- Cao Đài: hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ, như: Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, TP Cần Thơ,Vĩnh long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang.

- Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, như: An Giang, TP Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh long.

- Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước … và một số tỉnh phía Bắc.

- Hồi giáo: hơn 60 ngàn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận.

Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập hoặc có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào, như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa, Tổ tiên chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành.

Với sự đa dạng các loại hình tôn giáo tín ngưỡng nói trên, Việt Nam được ví như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc; tuy nhiên, đó cũng là những khó khăn trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể.

Đa số tín đồ tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân. Ước tính số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Công giáo chiếm đến 80 – 85%; của Cao Đài, Phật giáo Hòa hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân - tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân góp phần làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn của đất nước và trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng. Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh ngày 18 tháng 11 năm 1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: “.. phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, đề dần dần cách mạng hóa quần chúng và đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng…”. Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3 tháng 9 năm 1945: “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”, coi đó là một trong 6 nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ. Trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày 3 tháng 3 năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: “…vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người”. Ngày 14 tháng 6 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234- SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện.

Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt, nhưng Chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11 tháng 6 năm 1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234.

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11 tháng 11 năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297- CP về “Một số chính sách đối với tôn giáo”, trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21 tháng 3 năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59- HĐBT “Quy định về các hoạt động tôn giáo”. Nghị định 59 là văn bản mang tính pháp quy, là sự kề thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó đã phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 Hiến pháp (năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992). Trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã khẳng định: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Từ nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Điều 70 của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được tự do xâm phạm tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, ngày 2 tháng 8 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ vào ý kiến của Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định số 556 – TTg thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban tôn giáo ngày nay). Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời kỳ:

- Thời kỳ 1955-1975: là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc và tham gia các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

- Thời kỳ 1975-1990: là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất, để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước; đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng nội dung, phương hướng hành đạo theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, gắn bó với dân tộc.

- Thời kỳ 1990 đến nay: là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp các ngành chức năng thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo.

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn và hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên, trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trước năm 1990 cũng còn một số hạn chế nhất định:

+ Trong chỉ đạo xử lý các vấn đề nảy sinh từ tôn giáo vừa có biểu hiện hữu khuynh lại vừa có biểu hiện thô bạo, chưa kiên quyết đấu tranh với những hành vi lệch lạc, sai trái của những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích nhân dân; trong khi đó lại cấm đoán, hạn chế quá đáng nhu cầu tín ngưỡng thuần túy của tín đồ.

+ Vấn đề truyền đạo trái phép, lợi dụng nơi thờ tự tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để tiến hành các hoạt động gây hại đến an ninh trật tự, đến lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn còn đang tiếp diễn ở nhiều địa phương, nhất là các vùng sâu, vùng xa; trong khi đó các địa phương còn lúng túng, nặng về biện pháp đối phó.

Bên cạnh đó, khuyết điểm của một số cán bộ làm công tác tôn giáo là “xa dân, xa các chức sắc, một số nơi chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tín ngưỡng và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”, chậm khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách tôn giáo làm cho một bộ phận quần chúng có đạo băn khoăn, cách xử lý một số vụ việc còn sơ hở làm cho vấn đề thêm phức tạp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng lực lượng nòng cốt trong tôn giáo, công tác phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên trong tôn giáo… thời gian gần đây tuy có được quan tâm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay.




tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương