Lumen gentium



tải về 0.62 Mb.
trang3/9
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích0.62 Mb.
#38481
1   2   3   4   5   6   7   8   9

19. Sau khi cầu nguyện lâu giờ cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã gọi đến với mình những kẻ Người muốn và thiết lập Nhóm Mười hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng vương quốc Thiên Chúa (x. Mc 3,13-19; Mt 10,1-42); Người tổ chức các Tông đồ (x. Lc 6,13) theo hình thức một hiệp đoàn, nghĩa là một nhóm bền vững, trong số đó Phêrô được chọn làm người đứng đầu (x. Ga 21,15-17). Người sai các Tông đồ đến với con cái Israel trước tiên, rồi đến với tất cả các dân nước (x. Rm 1,16), cho các ngài thông phần vào quyền năng của Người để làm cho mọi dân tộc nên môn đệ Người, để thánh hoá và hướng dẫn họ (x. Mt 28,16-20; Mc 16,15; Lc 24,45-48; Ga 20,21-23); và như thế, các ngài mở mang Giáo Hội, và dưới sự hướng dẫn của Chúa, các ngài chăn dắt Giáo Hội bằng tác vụ mục vụ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Ngày lễ Ngũ Tuần, các ngài được làm cho nên kiên định hoàn toàn trong sứ mệnh này (x. Cv 2,1-36) như lời Chúa hứa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em, và khi ấy, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Khi Tin Mừng được rao giảng khắp nơi (x. Mc 16,20) và được những người nghe đón nhận nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ qui tụ Giáo Hội phổ quát mà Chúa đã thiết lập trên các Tông đồ và xây dựng trên nền đá Phêrô, thủ lãnh của các ngài, với viên đá góc là chính Đức Giêsu Kitô (x. Kh 21,14; Mt 16,18; Ep 2,30)39.

20. Sứ mệnh thần linh đã được Đức Kitô trao phó cho các Tông đồ phải được thực thi mãi cho đến tận thế (x. Mt 28,20), vì đối với Giáo Hội, Tin Mừng được các ngài chuyển giao chính là nguyên lý của toàn bộ đời sống Giáo Hội qua mọi thời đại. Vì thế, các Tông đồ đã cẩn thận chỉ định những người kế vị trong Giáo Hội, một cộng đồng được tổ chức theo phẩm trật.

Thật vậy, không chỉ để có thêm những người phụ tá trong các tác vụ40, nhưng còn để cho sứ mệnh đã được trao phó có thể được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông đồ đã ký thác, như một lời di chúc, cho các cộng sự viên trực tiếp của mình nhiệm vụ hoàn tất và củng cố công trình các ngài đã khởi sự41, đồng thời căn dặn họ coi sóc toàn thể đoàn chiên trong đó Chúa Thánh Thần đã đặt họ làm người chăn dắt Giáo Hội của Thiên Chúa (x. Cv 20,28). Bởi vậy, các ngài chỉ định những người theo tiêu chí đó, và trao ban chức vị để khi các ngài qua đời, những người đã được thử luyện sẽ lãnh lấy tác vụ của các ngài42. Trong số các thừa tác vụ khác nhau được thi hành trong Giáo Hội từ buổi sơ khai, theo chứng từ của Truyền Thống, thì vị trí chính yếu thuộc về chức vụ của những người đã được chỉ định vào chức Giám mục và do sự kế vị liên tục ngay từ đầu43, các ngài được coi là những người lưu chuyển dòng dõi tông truyền44. Như thế, theo chứng từ của thánh Irênê, Truyền thống Tông đồ được tỏ hiện và được bảo tồn trên khắp hoàn cầu45 nhờ những vị được các Tông đồ đặt làm Giám mục và nhờ những người kế vị các ngài cho đến chúng ta ngày nay46.

Như vậy, các Giám mục nhận lãnh tác vụ coi sóc cộng đoàn cùng với các linh mục và phó tế làm phụ tá47, khi thay mặt Thiên Chúa lãnh đạo đoàn chiên48 mà các ngài là những chủ chăn, với tư cách là thầy dạy giáo thuyết, tư tế lo phụng tự thánh và thừa tác viên lo việc cai quản49. Tương tự như chức vụ Chúa đã trao phó cho riêng thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, là một chức vụ trường tồn và phải được trao lại cho những người kế vị ngài, cũng thế, chức vụ chăn dắt Giáo Hội mà các Tông đồ nhận lãnh cũng trường tồn và được thi hành không gián đoạn nhờ thánh chức Giám mục50. Vì thế, Thánh Công Đồng dạy rằng chính Chúa đã lập các Giám mục kế vị các Tông đồ51 với tư cách là những chủ chăn Giáo Hội, ai nghe các ngài là nghe Đức Kitô, còn ai khước từ các ngài là khước từ Đức Kitô và Đấng đã sai Đức Kitô (x. Lc 10,16)52.

21. Như thế, chính Chúa Giêsu Kitô, Linh mục Thượng phẩm, hiện diện giữa các tín hữu qua các Giám mục được các linh mục trợ giúp. Dù đang ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện giữa cộng đoàn qua các vị giáo trưởng của Người53, nhưng trên hết, chính qua sự phục vụ cao cả của các ngài mà Đức Kitô công bố lời Thiên Chúa cho các dân nước và không ngừng cử hành các bí tích đức tin cho các tín hữu, qua sự chăm sóc đầy tình hiền phụ của các ngài (x. 1 Cr 4,15), Đức Kitô dùng ơn tái sinh siêu nhiên để nhập hiệp những chi thể mới vào Thân Mình Người, sau cùng, qua sự khôn ngoan thận trọng của các ngài, Đức Kitô dẫn dắt và hướng dẫn Dân của Tân Ước trong cuộc lữ hành tiến về hạnh phúc muôn đời. Được chọn để chăn dắt đoàn chiên của Chúa, các vị chủ chăn ấy là người phục vụ Đức Kitô và là người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. 1 Cr 4,1), những người được uỷ thác sứ vụ làm chứng cho Tin Mừng của ân sủng Thiên Chúa (x. Rm 15,16; Cv 20,24) cũng như việc phục vụ Thần Khí và đức công chính trong vinh quang (x. 2 Cr 3,8-9).

Để chu toàn những trách vụ vô cùng cao quí ấy, các Tông đồ đã được Đức Kitô đổ tràn Thánh Thần cách đặc biệt (x. Cv 1,8; 2,4; Ga 20,22-23), và chính các ngài lại đặt tay ban truyền ân huệ thánh linh này cho các cộng sự viên (x. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6-7), và ân huệ ấy cứ mãi được chuyển thông cho đến chúng tôi trong sự thánh hiến Giám mục54. Và Thánh Công Đồng dạy rằng việc thánh hiến Giám mục trao ban sự sung mãn của bí tích Truyền Chức mà cả phụng vụ của Giáo Hội lẫn các thánh Giáo phụ đều gọi là chức linh mục tối cao, là tột đỉnh của thừa tác vụ thánh55. Việc thánh hiến Giám mục trao ban chức vụ thánh hoá cũng như chức vụ giảng dạy và cai quản, những chức vụ mà tự bản tính chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và các thành viên của Giám mục đoàn. Thật vậy, theo truyền thống được biểu hiện cách đặc biệt qua các nghi thức phụng vụ và qua thực hành của Giáo Hội Đông phương cũng như Tây phương, rõ ràng là qua việc đặt tay và qua các lời thánh hiến, ân sủng Thánh Thần được thông ban56 và ấn tích thánh được ghi dấu57, đến độ các Giám mục đảm nhận với một cách thế trổi vượt và hữu hình vai trò của chính Đức Kitô là Thầy, là Chủ chăn và là Tư tế, đồng thời hành động trong tư cách là hiện thân của Người58. Các Giám mục có thẩm quyền ban bí tích Truyền Chức Thánh để nhận vào Giám mục đoàn những người mới được tuyển chọn.



22. Do Chúa thiết định, thánh Phêrô và các Tông đồ khác đã tạo thành một Tông đồ đoàn duy nhất, cũng với cách thức tương tự, Giám mục Rôma là người kế vị thánh Phêrô, cùng với các Giám mục là những người kế vị các Tông đồ luôn liên kết với nhau. Thật vậy, bản chất và đặc tính cộng đoàn của chức Giám mục được thể hiện qua một định chế có từ xa xưa, theo đó các Giám mục trên khắp hoàn cầu thông hiệp với nhau và với Giám mục Rôma bằng mối dây hiệp nhất, bác ái và bình an59, cũng như qua việc triệu tập các Công đồng60 để cùng nhau quyết nghị về những vấn đề quan trọng hơn61, bằng những định chế đã được cân nhắc với ý kiến của nhiều người62; các Công Đồng chung được nhóm họp trong các thế kỷ xác nhận rõ ràng điều này. Và bản chất cộng đoàn ấy cũng đã được đưa vào một tập tục xa xưa, qua việc mời nhiều Giám mục đến cùng cử hành nghi lễ tấn phong cho người vừa được chọn để nhận lãnh tác vụ tư tế tối cao. Một người được thiết định là thành viên của cộng đoàn Giám mục nhờ sự thánh hiến bí tích và nhờ sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và những phần tử của Giám mục đoàn.

Tuy nhiên, Giám mục đoàn hoặc cộng đoàn Giám mục chỉ có quyền bính khi hợp nhất với Giám mục Rôma, Đấng kế vị thánh Phêrô, như là với Thủ lãnh của Giám mục đoàn, trong khi quyền tối thượng của ngài trên tất cả các Chủ chăn và tín hữu vẫn được bảo toàn trọn vẹn. Thật vậy, do chức vụ của mình là đại diện Đức Kitô và là Chủ chăn của toàn thể Giáo Hội, Giám mục Rôma có thẩm quyền trọn vẹn, tối cao và phổ quát trong Giáo Hội và luôn có thể tự do thực thi quyền bính này. Hàng Giám mục, những người kế vị Tông đồ đoàn trong việc huấn giáo và điều hành mục vụ, hơn nữa còn làm cho cộng đoàn Tông đồ ấy được trường tồn, khi hợp nhất với vị Thủ lãnh là Giám mục Rôma, và không bao giờ tách rời khỏi ngài, Giám mục đoàn mới là chủ thể có quyền hành trọn vẹn và tối cao trên Giáo Hội phổ quát63, nhưng quyền bính này chỉ có thể được thực thi khi có sự ưng thuận của Giám mục Rôma. Chúa đã đặt một mình Phêrô làm nền đá và là người giữ chìa khoá của Giáo Hội (x. Mt 16,18-19), và đã đặt ngài làm Chủ chăn của toàn thể đoàn chiên Chúa (x. Ga 21,15tt.); nhưng riêng nhiệm vụ tháo gỡ và cầm buộc Người đã ban cho Phêrô (Mt 16,19), thì rõ ràng Người cũng đã ban cho cả cộng đoàn Tông đồ liên kết với vị thủ lãnh của mình (x. Mt 18,18; 28,16-20)64. Xét như được tạo thành với nhiều thành viên, Giám mục đoàn diễn tả đặc tính đa dạng và phổ quát của Dân Thiên Chúa; còn xét như được quy tụ dưới một vị thủ lãnh duy nhất, cộng đoàn Giám mục diễn tả tính duy nhất của đoàn chiên Đức Kitô. Trong cộng đoàn này, trong khi vẫn trung thành tôn trọng quyền tối thượng và tính cách chủ yếu của vị thủ lãnh, các Giám mục thực thi thẩm quyền riêng của mình vì phần ích cho các tín hữu của mình và hơn nữa cho toàn thể Giáo Hội, trong khi Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng củng cố cơ cấu tổ chức và sự hòa hợp của Giáo Hội. Quyền tối cao của Giám mục đoàn trên toàn thể Giáo Hội được thi hành cách trọng thể trong Công Đồng chung. Nhưng không bao giờ có một Công Đồng chung nếu không được người kế vị thánh Phêrô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận; và vị Giám mục Rôma có đặc quyền triệu tập, chủ tọa và phê chuẩn các Công Đồng này65. Hợp nhất với Giáo hoàng, các Giám mục cư ngụ trên khắp thế giới có thể thi hành quyền cộng đoàn ấy khi vị thủ lãnh mời gọi các ngài thực hiện một hành động tập thể, hay ít ra phê chuẩn hoặc sẵn lòng chấp nhận hành động mang tính liên kết của những Giám mục đang ở nhiều nơi khác nhau, xem đó thực sự là một hành động tập thể.



23. Sự hợp nhất của Giám mục đoàn cũng hiển hiện qua những mối liên hệ hỗ tương giữa mỗi Giám mục với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát. Vị Giám mục Rôma, Đấng kế vị Phêrô, là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình66 của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu. Còn mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương của mình67 vốn được hình thành theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát, chính nhờ và trong các Giáo Hội này mà có một Giáo Hội công giáo duy nhất68. Chính vì lẽ này, mỗi Giám mục tiêu biểu cho Giáo Hội mình, và tất cả các Giám mục, cùng với Giáo Hoàng, tiêu biểu cho toàn thể Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu thương và hợp nhất.

Mỗi Giám mục, người được đặt đứng đầu một Giáo Hội địa phương, thi hành việc điều hành mục vụ trên một phần của đoàn dân Thiên Chúa được trao phó cho mình, chứ không phải trên các Giáo Hội khác hoặc trên Giáo Hội phổ quát. Nhưng với tư cách là thành viên của Giám mục đoàn và là người kế vị hợp pháp của các Tông đồ, mỗi Giám mục, do sự thiết định và mệnh lệnh của Đức Kitô, có bổn phận69 ân cần chăm lo cho toàn thể Giáo Hội, một sự chăm lo, cho dù không được thực thi bằng một hành động thuộc quyền tài thẩm, vẫn mang lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội phổ quát. Thật vậy, tất cả các Giám mục có nhiệm vụ phát huy và bảo vệ tính duy nhất của đức tin và kỷ luật chung của toàn Giáo Hội, dạy cho tín hữu biết yêu mến toàn Nhiệm Thể Đức Kitô, nhất là các chi thể nghèo khó, đau khổ và đang chịu bách hại vì sự công chính (x. Mt 5,10), sau cùng các ngài còn có nhiệm vụ phát huy mọi hoạt động sinh ích lợi cho toàn thể Giáo Hội, nhất là để giúp tăng triển đức tin và làm cho ánh sáng chân lý toàn vẹn chiếu soi trên mọi người. Ngoài ra, điều quan trọng là khi khôn ngoan cai quản Giáo Hội địa phương là một phần của Giáo Hội phổ quát, các Giám mục đã góp phần hữu hiệu vào thiện ích của toàn Nhiệm Thể cũng chính là thân mình của các Giáo Hội70.

Chăm lo việc rao giảng Tin Mừng cho khắp thế giới là bổn phận của cộng đoàn các mục tử, đây là bổn phận chung mà Đức Kitô đã truyền lệnh buộc tất cả các ngài đều phải thực thi, như Đức Giáo hoàng Cêlestinô đã nhắc nhở các Nghị phụ Công Đồng Êphêsô71. Vì thế mỗi Giám mục, theo mức độ thực thi phận vụ riêng của mình, phải cộng tác với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô là người được ủy thác cách cá biệt nhiệm vụ cao cả là truyền bá danh Chúa Kitô72. Do đó, các Giám mục phải dốc toàn lực đóng góp vào việc truyền giáo bằng cách cung cấp cả những thợ gặt lẫn những trợ giúp thiêng liêng và vật chất, hoặc do chính mình trực tiếp hoặc khơi dậy sự cộng tác nhiệt thành của các tín hữu. Sau cùng, trong sự hiệp thông phổ quát của đức ái, theo gương lành đáng quí của thời xưa, các Giám mục phải sẵn lòng mang đến sự trợ giúp huynh đệ cho các Giáo Hội khác, nhất là cho những Giáo Hội lân cận và túng thiếu hơn.

Chúa Quan phòng đã muốn các Giáo Hội đã được các Tông đồ và những người kế vị thành lập tại nhiều nơi khác nhau theo dòng thời gian, tụ họp lại thành nhiều nhóm liên kết với nhau một cách có tổ chức, các nhóm này được có kỷ luật riêng, phụng vụ riêng, di sản thần học và thiêng liêng riêng, trong khi vẫn luôn gìn giữ sự hợp nhất trong đức tin cũng như cơ cấu duy nhất và thần linh của Giáo Hội phổ quát. Một số trong các Giáo Hội ấy, nhất là những Giáo Hội cổ xưa có tòa Thượng phụ, tựa như những người mẹ trong đức tin, có thể nói đã sinh ra nhiều người con là các Giáo Hội khác, và cho đến nay vẫn còn liên kết với nhau bằng mối dây bác ái khá mật thiết trong đời sống bí tích và trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ lẫn nhau73. Sự dị biệt nơi các Giáo Hội địa phương đang hướng về sự hợp nhất càng minh chứng rõ ràng đặc tính công giáo của một Giáo Hội không phân chia. Cũng thế, ngày nay các Hội đồng Giám mục có thể góp phần phong phú và hiệu quả để thể hiện cụ thể tinh thần cộng đoàn.



24. Vì là những người kế vị các Tông đồ, các Giám mục lãnh nhận từ Chúa, Đấng được ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để mọi người được cứu độ nhờ lãnh nhận đức tin, phép Thánh tẩy và chu toàn các giới răn Chúa (x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-16; Cv 26,17tt.). Để hoàn thành sứ mệnh đó, Đức Kitô đã hứa ban Thánh Thần cho các Tông đồ, và trong ngày lễ Ngũ tuần, Người đã cử Thánh Thần từ trời xuống, nhờ sức mạnh của Ngài, các Tông đồ trở nên chứng nhân cho Đức Kitô đến tận cùng trái đất, trước mọi dân, mọi nước và vua chúa (Cv 1,8; 2,1tt; 9,15). Nhiệm vụ Chúa đã trao phó cho các Chủ chăn của dân Người đích thực là một việc phục vụ mà Thánh Kinh gọi rõ ràng là “diakonia” hay thừa tác vụ (x. Cv 1,17 và 25; 21,19; Rm 11,13; 1 Tm 1,12).

Sứ vụ theo Giáo luật của các Giám mục có thể được thực thi, hoặc theo tập tục hợp pháp mà quyền tối thượng và phổ quát của Giáo Hội vẫn còn chấp nhận, hoặc theo các luật lệ được thẩm quyền ấy ban hành hay thừa nhận, hoặc trực tiếp do chính Đấng kế vị Thánh Phêrô; nhưng nếu Đức Giáo Hoàng phản đối hoặc không thừa nhận sự hiệp thông tông truyền nơi Giám mục nào, thì vị đó không được đảm nhận trách vụ74.



25. Rao giảng Tin Mừng là nhiệm vụ hàng đầu trong các nhiệm vụ chính yếu của các Giám mục75. Thật vậy, các Giám mục là những người loan truyền đức tin để đem nhiều môn đệ mới về với Đức Kitô, là những thầy dạy đích thực, nghĩa là được ban quyền bính của Đức Kitô, để rao giảng cho đoàn dân đã được trao phó cho các ngài đức tin họ phải lãnh nhận và đem áp dụng vào cách sống, và để soi tỏ đức tin ấy dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, khi rút ra những cái mới cái cũ từ kho tàng mạc khải (x. Mt 13,52), các ngài làm cho đức tin trổ sinh hoa trái, và luôn tỉnh thức loại bỏ mọi lầm lạc đang đe dọa đoàn chiên mình (x. 2 Tm 4,1-14). Các Giám mục khi dạy dỗ trong sự thông hiệp với Giám mục Rôma, phải được mọi người kính trọng như những chứng nhân của chân lý thần linh và công giáo; phần các tín hữu phải tùng phục phán quyết của Giám mục về đức tin và phong hoá được công bố nhân danh Đức Kitô, cũng như phải gắn bó với ngài bằng thái độ tuân phục trong tinh thần đạo đức. Thái độ tuân phục trong tinh thần đạo đức này về mặt ý chí cũng như lý trí phải được đặc biệt dành cho huấn quyền đích thực của vị Giám mục Rôma, ngay cả khi ngài không tuyên bố từ thượng toà, ex cathedra; như vậy có nghĩa là ta phải kính cẩn nhìn nhận quyền giáo huấn tối thượng của ngài, chân thành chấp nhận những phán quyết của ngài theo đúng tư tưởng và ý muốn mà ngài trình bày, đặc biệt biểu lộ qua bản chất các tài liệu, hoặc qua việc ngài nhiều lần lập lại cùng một giáo huấn hay qua cách diễn tả của ngài.

Tuy từng Giám mục riêng rẽ không được hưởng đặc ân bất khả ngộ, tuy nhiên, khi các ngài đồng thuận trong một phán quyết phải được tuân giữ cách tuyệt đối, thì dù đang phân tán khắp nơi trên thế giới, nhưng vẫn duy trì sự hiệp thông với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô trong lúc chính thức dạy dỗ về đức tin và phong hoá, các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo lý của Đức Kitô76. Điều này còn rõ ràng hơn khi cùng nhau nhóm họp trong một Công Đồng chung, các ngài là những tiến sĩ và thẩm phán về đức tin và phong hoá đối với Giáo Hội phổ quát, nên phải tuân theo các định tín của các ngài với sự vâng phục của đức tin77.

Ơn bất khả ngộ mà Chúa Cứu Thế đã muốn ban cho Giáo Hội của Người khi xác định giáo thuyết về đức tin và phong hóa, trải rộng đến tất cả những gì có trong kho tàng mạc khải thần linh mà Giáo Hội phải bảo toàn cách cẩn trọng và phải trình bày cách trung thành. Vị Giám mục Rôma, Thủ lãnh của Giám mục đoàn, hưởng ơn bất khả ngộ đó do chức vụ của mình khi, với tư cách là chủ chăn và thày dạy tối cao của mọi tín hữu, là người củng cố đức tin anh em mình (x. Lc 22,32), ngài công bố giáo thuyết về đức tin và phong hoá bằng một phán quyết tuyệt đối78. Vì lẽ này, thật hợp lý khi nói rằng những xác quyết của ngài là không thể sửa đổi do tự bản chất chứ không phải do sự đồng ý của Giáo Hội, vì những điều đó được công bố dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà Chúa đã hứa ban cho ngài trong thánh Phêrô, như vậy, không cần ai khác chuẩn nhận và không phải nại tới một phán quyết nào khác. Thật vậy, vị Giám mục Rôma không đưa ra xác quyết với tư cách cá nhân, nhưng trình bày và bảo vệ giáo thuyết đức tin công giáo với tư cách là thầy dạy tối cao của toàn thể Giáo Hội, nơi ngài, đặc sủng bất khả ngộ của chính Giáo Hội hiện diện một cách đặc biệt79. Ơn bất khả ngộ được hứa cho Giáo Hội cũng hiện diện nơi Giám mục đoàn khi các ngài thực thi quyền giáo huấn tối thượng cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô. Giáo Hội không thể không chấp nhận những phán quyết đó, vì được tác động bởi cùng một Thánh Thần, nhờ đó toàn thể đoàn chiên Đức Kitô được bảo vệ và phát triển trong sự hợp nhất của đức tin80.

Khi vị Giám mục Rôma hoặc Giám mục đoàn cùng với ngài định tín một giáo lý, các ngài tuyên bố điều ấy hợp với chính mạc khải mà mọi người buộc phải tuân giữ và qui phục, được truyền lại trọn vẹn hoặc dưới hình thức văn bản hoặc theo truyền khẩu nhờ sự kế vị hợp pháp của các Giám mục và nhất là nhờ sự quan tâm cảnh giác của chính vị Giám mục Rôma, nhờ Thần Khí sự thật soi sáng, mạc khải ấy được giữ gìn cách cẩn trọng và trình bày cách trung thành81. Tuỳ theo trách vụ của mình cũng như tầm quan trọng của sự việc, và bằng những phương tiện thích hợp, vị Giám mục Rôma và các Giám mục tận tâm nỗ lực để tìm hiểu thấu đáo và trình bày cách thích hợp mạc khải này82; nhưng sẽ không có một mạc khải công khai mới nào nữa được thêm vào kho tàng thần linh của đức tin83.



26. Giám mục, bởi nhận lãnh bí tích Truyền chức thánh cách viên mãn, là “người quản lý ân sủng của chức linh mục tối cao”84, nhất là trong phép Thánh Thể do chính ngài dâng hoặc lo liệu để có người dâng85, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động và tăng triển. Giáo Hội Đức Kitô thật sự hiện diện trong mọi cộng đoàn tín hữu địa phương hợp pháp, là những cộng đoàn luôn gắn bó với các vị Chủ chăn của mình, và Tân Ước cũng gọi đó là các Giáo Hội86. Thật vậy, trong địa phương của mình, các cộng đoàn này là đoàn dân mới, được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự sung mãn dồi dào (x. 1 Ts 1,5). Nơi các cộng đoàn đó, các tín hữu được tụ họp lại nhờ việc rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, và mầu nhiệm bữa Tiệc của Chúa được cử hành “để nhờ Thịt và Máu Chúa, tình huynh đệ trọn vẹn được kết thành trong một thân thể”87. Nơi mỗi cộng đoàn tụ họp quanh bàn thờ, qua tác vụ thánh của vị Giám mục, bày tỏ rõ ràng biểu tượng của đức ái và của “sự hợp nhất nơi nhiệm thể, điều kiện thiết yếu để có ơn cứu độ”88. Đức Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, thường là nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi, và chính nhờ thần lực của Người mà Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền được qui tụ89. Bởi vì “việc tham dự vào Mình và Máu Đức Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành điều mà chúng ta nhận lãnh”90.

Tuy nhiên, mọi việc cử hành Thánh Thể cách hợp pháp đều phải được qui định bởi chính vị Giám mục, người được ủy thác nhiệm vụ dâng lên Thiên Chúa uy linh phụng tự Kitô giáo và điều hành phụng tự đó theo đúng huấn lệnh của Chúa và luật Giáo Hội, với những qui định sau đó được chính ngài xét thấy phải xác lập riêng cho giáo phận mình.

Như thế, khi cầu nguyện và hoạt động cho dân Chúa, các Giám mục làm tuôn tràn cách phong phú dồi dào sự thánh thiện sung mãn của Đức Kitô. Bằng thừa tác vụ Lời Chúa, các ngài thông truyền cho tín hữu sức mạnh của Thiên Chúa để ban ơn cứu độ (x. Rm 1,16), các ngài thánh hoá tín hữu bằng các bí tích mà với quyền bính của mình, các ngài sắp xếp để ban phát cách đều đặn và phong phú91. Các ngài qui định việc ban bí tích Thánh tẩy để các tín hữu được tham dự vào chức vụ tư tế vương giả của Đức Kitô. Các ngài là thừa tác viên đầu tiên của bí tích Thêm Sức, trao ban các chức thánh, ấn định kỷ luật về việc giải tội, và tận tình khuyên bảo, giáo huấn dân Chúa để họ chu toàn các phận vụ trong phụng vụ và nhất là trong hy tế Thánh lễ với lòng tin và thái độ kính cẩn. Sau cùng, các ngài phải nêu gương sáng cho những kẻ thuộc quyền trong cách xử sự, bằng cách xa tránh tất cả những gì không tốt đẹp trong cách sống, và với ơn Chúa giúp, cố gắng hết sức biến đổi tất cả trở nên tốt lành, để cùng với đoàn chiên Chúa đã trao phó đạt tới sự sống vĩnh cửu92.



tải về 0.62 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương