44
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan
lại nói về âm linh và nghĩa sĩ. Riêng hậu tẩm thờ thần linh chỉ có đại tự “thần” ở giữa mà không
có câu đối nào. Đây là trường hợp ít thấy nhất.
Đình Chiên Đàn (huyện Phú Ninh) là một trường hợp đặc biệt khác. Người dân thường
truyền câu “Nhất La Qua, nhì Thành Mỹ, ba Chiên Đàn” để nói đến những ngôi đình to lớn nhất
ở xứ Quảng Nam lúc bấy giờ. Về sau, cùng với sự tàn phá của chiến tranh và nhịp đông đúc của
cư dân sinh quần, diện tích đình bị thu hẹp đáng kể, hiện chỉ còn 1.500m
2
toàn khuôn viên.
Mặc dù vậy, tính đến nay đây là ngôi đình lớn nhất ở Quảng Nam – Đà Nẵng với kết cấu công
trình bằng gỗ có giá trị cao về kiến trúc. Tư liệu Hán Nôm bảo tồn tại đây không nhiều nhưng
tạo được ấn tượng cổ kính, tráng quan. Chúng tôi ghi nhận có ba cặp câu đối thiết trí ở nội
thất công trình chính, và điều đặc biệt là nội dung của chúng đều xiển dương công khai ấp
lập làng của các bậc tiền bối.
Mưu lớn phò trợ, cháu con đến nay tụ hội vui ca,
Trước sau khai dựng, chung chốn sinh thời thêm sáng chói.
Nhớ mãi công sáng nghiệp khi xưa thực quá gian nan,
Trên dưới kế thừa ân đức, giữ vững thành trì thực chẳng dễ dàng.
Bạt đồng hoang, chia dân số lập nên 11 ấp,
Nguyện báo công đền đức mãi ngàn năm.
Rõ ràng, bóng dáng thần linh ở đây khá mờ nhạt, mặc dù trong văn tế xướng đọc
trong
các nghi lễ có sự hiện diện của các đấng thần uy. Điều này hoàn toàn không thấy ở Đà Nẵng,
nơi bàn thờ thần luôn án ngữ ở vị trí trang trọng nhất và sự kính ngưỡng oai linh thần thánh
có mặt ở chính điện và hậu tẩm; Riêng tiền hiền, hậu hiền được phối thờ nghiêm cẩn ở hai
gian tả, hữu (Hồ Tấn Tuấn, 2012).
Ở một góc nhìn khác, anh linh các bậc “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh” được
sáng với công bảo trợ của thần thánh. Như ở đình Đại Phú (Xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc), chính
điện có 3 ban thờ, ngoài ban thờ thần có ghi rõ đối tượng phụng tự bằng đại tự chữ Hán ở
chính giữa, hai ban còn lại chỉ ghi “Anh linh” và “Hiển hách”, nhưng câu đối có nội dung tương
tự nhau. Ban thờ “Anh linh” (hữu) ghi:
Dựng mới miếu mạo, nơi cao ráo,
Tinh thần sáng chói, nghiêm tráng thay.
Ban thờ “Hiển hách” (tả):
Hộ nước giúp dân, ngời bốn biển,
Người yên vật lợi khắp nơi nơi.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (75) - 2022
45
Công đức khai đất dựng làng được ví như ánh nhật nguyệt phổ chiếu khắp nơi, truyền
lưu vạn đời, và cháu con không quên ân đức ấy:
Nhật nguyệt rọi chiếu mười phương,
Tổ tông lưu truyền vạn thế.
(Đình Mỹ Thạch, thành phố Tam Kì)
Bến sông mãi lưu công đức hậu thế,
Bia đá ngàn năm khắc ghi huân tích của tiền nhân.
(Đình Thạch Tân, thành phố Tam Kỳ)
Đây vừa là lời khẳng định của hiện tại nhưng cũng như một điểm kì vọng, một lời nhắc
nhở về đạo lý báo đền ân nghĩa của các lớp cháu con kế thế.
Đình làng Quảng Nam không chỉ là nơi thờ thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền mà
còn ghi nhận việc phụng cúng nghĩa sĩ trận vong và âm linh. Thực tế, việc phối thờ này không
hề là hiện tượng mới mẻ. Điểm khác biệt là thay vì được thờ ở ngoài trời, thì hai đối tượng này
được phối thờ ngay trong chính điện. Số lượng các đình làng bố trí thờ tự như vậy không phải
ít. Một số nơi chỉ ghi đại tự chữ Hán biểu thị đối tượng được phụng cúng, nhưng cũng không
ít đình thiết bày câu đối mà nội dung là ghi nhận sự hỗ trợ của họ khi còn sống và cả khi chết
đi, đều là những người góp phần bảo đảm sự bình an của làng quê hôm nay.
Âm hồn hộ trợ, người vật đều yên,
Cõi linh phù trì, xã thôn ổn thỏa.
Nghĩa rạng cương thường, sáng nhật nguyệt,
Uy thịnh quân sĩ, tỏ càn khôn.
(Đình An Mỹ, Hội An)
Anh hùng quyết thắng giữ biên cương,
Vì nước quên thân chẳng sợ chết.
(Đình Sơn Phô, thành phố Hội An)
Chia sẻ với bạn bè của bạn: