46
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan
“đất Bắc” như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…, các “tân dân” lần lượt mở rộng địa bàn cư trú
trên khắp xứ Quảng Nam. Như ở làng Hương Quế (Quế Sơn), từ tộc Phạm có cội rễ từ Thanh
Hóa vào khai cơ, rồi sau đó có thêm các tộc khác vào lưu trú, lập ra năm làng kế cận nhau, như
tộc Nguyễn, Đỗ, Trần, Ngô, Thân dựng nên làng Câu Nhi; họ Trương Đức cùng họ Huỳnh khai
mở đất Ái Nghĩa; họ Lê, Nguyễn, Hồ cùng Nguyễn, Đào, Mai, Võ mở đất Nông Sơn. Ngoài ra
còn khai mở các làng Bàn Thạch Đông giáp, Bàn Thạch Nam giáp, Hoa Phong…
(Trần Đình
Hằng, 2019, tr 215). Các chi phái kế thế trên vùng đất mới sâu rộng như vậy nhưng gốc tích
“Bắc địa”, “Bắc nhân” luôn được nhắc nhở:
Từ đất Bắc theo vua đến khai phá cổ lũy,
Ở trời Nam lập làng dựng nền mới tráng nghiêm.
(Đình Sơn Phong, Hội An)
Cùng một nguồn cội tất cả đều theo đến đất Nam,
Nay con đàn cháu đống chung quy đều từ người Bắc.
(Đình Sơn Phô, Hội An)
Ở một góc nhìn khác, việc nhìn nhận gốc tích “Bắc địa” không dừng lại ở bài học đạo
lý như cây có cội, nước có nguồn, mà còn khơi gợi tình đoàn kết, tương hỗ của các dòng tộc
trong cùng một làng xã. Dù mỗi người mang một họ khác nhau, nhưng đều phát tích từ vùng
đất Bắc, cùng nhau gây dựng nên xã hiệu như hôm nay. Đó là lý do từ rất sớm, thủy tổ các
dòng họ tiền hiền, hậu hiền đã được làng xã thờ cúng vượt ra khỏi phạm vi từ đường gia tộc,
trở thành tiên tổ nói chung của con cháu các chi phái, dòng tộc trong một vùng đất.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: