Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (75) - 2022
43
ứng mỗi vế 5, 7 và 8 chữ). Điều này xuất phát từ vị trí đặt để (chiều cao ban thờ thường không
lớn), mặt khác câu đối ngắn gọn, với cách ngắt nhịp 2/3/2/3, 3/4/3/4 (hoặc 4/3/4/3), 4/4/4/4
tạo hiệu ứng âm thanh thể hiện sự nghiêm trang, uy vũ của thần thánh. Ngược lại, các câu
đối sử dụng nhiều chữ hơn thích hợp ca ngợi phong cảnh làng quê, văn vật tiêu biểu, nêu cao
lòng tự hào của con dân đối với quê hương bản quán. Theo thống kê sơ bộ, trong số hơn 40
đình làng khảo sát ở Quảng Nam, có đến gần 90% các câu đối ngợi ca thần linh sử dụng vế
đối ngắn gọn, súc tích. Các câu đối có trên 16 chữ ít xuất hiện, mà trường hợp ở đình làng Cẩm
Phô là một trong số đó.
Đình làng là thiết chế thờ thần thánh, và câu đối ca ngợi công đức những vị thần này
thường xuất hiện nhiều nhất ở các ban thờ hậu tẩm hoặc chính điện. Tuy nhiên, đình Hội An
(huyện Tiên Phước) là trường hợp ngoại lệ. Đây là đình làng duy nhất hiện còn ở huyện Tiên
Phước. Được dựng lần đầu dưới thời Tự Đức năm 1868, sau nhiều lần hư hại, đến nay đình
có kiến trúc khá đơn sơ, giản hẹp. Đây là ngôi đình duy nhất không có câu đối Hán Nôm bên
trong công trình chính.
Bên cạnh thánh thần phò trợ, công khai hóa của các bậc tiền nhân được nhấn mạnh rất
nhiều lần. Điều này không khó lý giải. Mỗi một làng xã được khai lập đều nhờ công lao của
một hoặc nhiều dòng họ sơ thủy, về sau lại cộng gộp thêm nhiều tộc hậu hiền vun bồi. Việc
đan xen nguồn gốc của các dòng tộc tiền hiền, hậu hiền là trường hợp phổ biến, tạo nên bản
sắc riêng có của những vùng đất. Theo khảo sát, đa phần các dòng họ có gốc gác từ vùng
Thanh – Nghệ - Tĩnh di dân vào lập nghiệp từ khoảng thế kỉ XIV, thường gọi chung là người
vùng đất Bắc, ngoài ra nhiều làng xã lập hiệu do sự dịch chuyển của dòng họ trong nội bộ
vùng đất Quảng Nam. Lẽ dĩ nhiên của đạo lý
Cây có tổ, người có tông là khắc ghi nguồn cội của
mình. Câu
người đất Bắc dựng nghiệp ở trời Nam trở thành một đối sánh phổ biến. Theo thống
kê sơ bộ, số lượng các câu đối có nội dung xiển dương công tích tiên tổ (tiền hiền, hậu hiền)
nhiều hơn hẳn đấng thần linh.
Như ở đình An Mỹ, thành phố Hội An là một trường hợp đặc biệt. Làng An Mỹ theo
truyền khẩu được hình thành vào khoảng cuối thế kỉ 16-17. Trước đó làng có địa giới khá rộng,
phía bắc giáp xã Trà Quế, nam giáp xã Sơn Phô, tây giáp xã Sơn Phong, đông giáp xã Thanh
Châu. Đình làng được dựng vào cuối thế kỉ 18. Đây là nơi thờ thần linh (hậu tẩm), tiền hiền,
hậu hiền và cả âm linh, nghĩa sĩ trận vong (chính điện). Ngoài các câu đối khắc gỗ treo ở các
cột, thì trên các bàn thờ đều có, nhưng các câu đối ở đây chỉ nhấn mạnh đến công gầy dựng,
bồi tụ của các lớp tiền nhân. Bàn thờ tả phụng thờ tiền hiền ghi:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: