Kinh tì-kheo na-tiên càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753 Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu Nguồn


- Luận-bàn Giáo-Pháp, Vương và Na-Tiên đều vui



tải về 1.4 Mb.
trang25/59
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.4 Mb.
#19794
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   59

097.- Luận-bàn Giáo-Pháp, Vương và Na-Tiên đều vui .


Na-Tiên nói:

- Đã quá nửa đêm rồi, tôi xin ra về.

Tức thì, Vương liền ra lịnh cho các quan hầu-cận mang bốn súc vải dầy có tẩm dầu mè dùng làm đuốc, để đưa Na-Tiên về, dặn phải phục-vụ Na-Tiên như đang phục-vụ cho Ta. Các vị hầu-cận đồng tâu: ''Xin tuân lịnh dạy.''

Vương nói:

- Được vị thầy dạy như Na-Tiên, và có đệ-tử như Ta, chắc là mau đắc Đạo lắm.

Tất cả các câu hỏi Vương nêu lên Na-tiên đều nhứt-nhứt đáp đầy-đủ hết. Vương hết sức hoan-hỉ. Vương liền cho xuất kho mười vạn bộ y thật đẹp để cúng-dường Na-Tiên. Vương nói:

- Kể từ nay, xin nguyện Na-Tiên hằng ngày cùng tám trăm vị Sa-môn đến cung-điện nầy để dùng cơm, và nếu có cần dùng chi, Ta sẽ xin cung-phụng ngay.

Na-Tiên thưa:

- Tôi làm đạo-nhơn nên chẳng có điều chi ham-muốn.

- Na-Tiên nên nhận để tự giúp cho mình và cũng nên giúp cho Ta luôn.

- Thế nào là giúp tự-thân và giúp luôn cho Đại-Vương?

- Sợ e người ngoài bàn-tán bảo rằng Ta keo-kiệt, Na-Tiên đã vì Vua giải hết các chỗ hồ-nghi mà Vua lại chẳng ban-thưởng gì cả; hoặc sợ e có kẻ khác bảo, Na-Tiên đã chẳng giải nổi được các chỗ Vua còn hồ-nghi, nên chẳng được Vua ban-thưởng gì cả. Na-tiên mà nhận, đó là giúp Ta được phước, mà cũng giúp cho Na-Tiên giữ được tròn danh-tiếng... Cũng như con sư-tử bị giam nhốt trong cái chuồng bằng vàng đang muốn thoát ra, tuy là Quốc-vương tại trong cung, nay Ta tỉnh ngộ, lòng chẳng được vui, muốn bỏ nước mà đi hành Đạo.

Vương dứt lời, Na-Tiên liền đứng lên đi về chùa.

Na-Tiên đi rồi, Vương thầm nghĩ, Ta hỏi Na-Tiên bao nhiêu việc, Na-Tiên vì Ta giải rõ bấy nhiêu việc. Các chỗ Ta hỏi, Na-Tiên chẳng hề chẳng giải rõ ý của Ta.

Na-Tiên trở về chùa cũng tự nghĩ, Vương hỏi ta biết bao nhiêu sự, Ta đều đáp hết bấy nhiêu sự. Chỗ Vương đã hỏi, Ta đều giải-thích rõ. Na-Tiên lòng hoan-hỉ nghĩ như thế cho đến khi trời sáng rõ.

Sáng hôm sau, Na-Tiên khoác áo cà-sa, cầm bình bát đi thẳng vào cung. Trên điện ngọc, Đức Vua liền đứng dậy thi lễ và mời Na-Tiên ngồi. Vương bạch với Na-Tiên:

- Khi Na-Tiên ra về rồi, Ta tự nghĩ, đã hỏi Na-Tiên biết bao lời, Na-Tiên đều giải-đáp tất cả. Ta tự nhớ lại các chỗ đã hỏi Na-Tiên, chẳng có câu nào Na-Tiên chẳng giải rõ ý của Ta. Ta nhớ đến các lời đó, nên lòng rất là hoan-hỉ mà nằm an nghỉ cho đến sáng.

Na-Tiên thưa:

- Tôi quay về chùa cũng tự nghĩ, Đại-Vương đã hỏi tôi biết bao nhiêu sự-việc, tôi cũng đã vì Đại-Vương giảng-giải bấy nhiêu sự-việc. Tôi lại nghĩ, các chỗ Đại-Vương hỏi tôi, tôi đều phân-tách rõ hết. Vì thế mà lòng tôi hoan-hỉ suốt đêm cho đến sáng.

Nói xong, Na-Tiên muốn ra đi. Vương liền đứng dậy làm lễ tiễn Na-Tiên.

(Kinh Tỳ-kheo Na-Tiên, Quyển Hạ)

NA-TIÊN TÌ-KHEO KINH


B.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ


(Các chữ khó, gặp trong bản Phỏng-dịch, được sắp theo thứ-tự A,B,C để dễ tra-cứu. Các số in đậm như: 003, chỉ số của các Tiểu-mục) 

A


A-la-hán (003; 005; 022; 086): đạo-quả thứ tư, cao nhứt, của hàng Thanh-văn, đã tận-diệt các phiền-não và chứng-đắc vô-sanh (đắc quả Niết-bàn, chẳng còn tái-sanh nữa) (Pali: Arahant; Sanscrit: Arhat).

A-na-hàm (008; 022): quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn, còn gọi là quả Bất-Lai, nghĩa là chẳng tái-sanh trở lại cõi người nữa, mà sanh lên Trời, tiếp-tục tu sẽ chứng-đắc quả Niết-bàn. (Pali: Anagàmi; Sanscrit:Anagamin).

Ác-đạo (040): (Ác = xấu, dữ; Đạo = con đường): Ác-đạo là ba nẻo xấu-dữ trong đường tái-sanh. Đó là: (1) địa-ngục; (2) ngạ-quỉ (= quỉ đói); (3) súc-sanh (= thú-vật).

Ác-tâm (032): (Ác = xấu, dữ; tâm = lòng): lòng xấu-dữ; trái nghĩa với Thiện-tâm, lòng lành.

An-định (021): (An = yên; Định= dừng một chỗ): Tâm an-định là tâm-trạng yên-ổn, tâm chẳng nghĩ lông-bông, ý-tưởng dừng hẳn. 

An-tịnh (002): (An = yên; tịnh = sạch): yên-tĩnh và sạch-sẽ.

An-tọa (010): (An = yên; toạ = ngồi): (xin mời) ngồi yên.

Áo-não (002): buồn rầu, khóc than.

Áo trắng (010): Người áo trắng nói ở đây là nói đến các người còn ở tại nhà, tu theo phép Phật. Họ còn chưa được mặc áo vàng, dành riêng cho bực xuất-gia.

*

Â


Ân-ái (019; 038; 041; 044; 047-b; 049-a; 065): (Ân = ơn; ái = thương-yêu): niềm thương giữa vợ-chồng, sự quyến-luyến giữa trai-gái.

Ẩn-tu (007): (Ẩn = ở chỗ vắng-vẻ, ít người biết đến; tu = tu-hành): Đến nơi rừng núi xa vắng để tu-hành một mình.

*

B


Ba đường ác (007): Ba đường xấu-ác trong cõi Luân-hồi; Hán-Việt gọi là Tam ác-đạo. Đó là: (1) địa-ngục, (2) ngạ-quỉ, (3) súc-sanh.

Ba-mươi-bảy Phẩm Trợ Đạo (023): (Phẩm = Chương, mục; Trợ = phụ-giúp vào; Đạo = đường-lối tu-hành theo Chánh-Pháp): 37 chương-mục trong Kinh, phụ-giúp vào việc thông-hiểu và thực-hành việc tu-hành theo Chánh-Pháp của Đức Phật. Đó là:

1.- Tứ niệm-xứ: 4
2.- Tứ Chánh-cần: 4
3.- Tứ Như-ý-túc: 4
4.- Ngũ căn: 5
5.- Ngũ lực: 5
6.- Thất giác-chi: 7
7.- Bát-Chánh-Đạo: 8

Cộng: 37 

Bà-la-môn (004): đạo Bà-la-môn là tôn-giáo chánh-thức của cổ-Ấn-độ, tôn-thờ đức Đại-Phạm Thiên-vương (Brahma), theo giáo-lý trong Kinh Vệ-đà (Veda). Chữ Bà-la-môn (Pali: Brahmana) còn có nghĩa là giai-cấp tu-sĩ, cao-quí nhứt trong xã-hội cổ của Ấn-độ.

Bạch (016): tiếng tôn-xưng chỉ sự thưa trình lên bực trên.

Bàng-hoàng (011): Chẳng yên-tâm, lo-lắng chẳng biết vì sao lo

Bào-thai (049-c; 063; 065): (Bào = ruột; thai = thân-thể người khi mới tượng hình trong bụng mẹ): thân còn trong bụng mẹ. 

Bắc-câu-lư châu (091): Theo khoa địa-lý của Phật-học, thế-gian có ngọn núi Tu-di cao ở giữa, chung quanh có bốn châu: (1) Đông-thắng-thần châu, (2) Nam-thiệm-bộ châu, (3) Tây-ngưu-hóa châu, (4) Bắc-câu-lư châu. Chúng ta sống ở Nam-thiệm-bộ châu, còn gọi là Diêm-phù-đề (tên nước Ấn-độ xưa, vì có nhiều cây diêm-phù)

Băng-hà (009): tiếng tôn-xưng để chỉ sự chết của Vua.

Bần-cùng (061): (Bần = nghèo; cùng = túng-cùng): nghèo thiếu, khốn-cùng. 

Bất an (012): (Bất = chẳng; an = yên): tâm chẳng yên, lo-lắng.

Bất-bình-đẳng (061): (Bất = chẳng; Bình= bằng nhau; Đẳng= hàng): chẳng ngang hàng nhau, có kẻ hơn, người kém; thiếu sự công-bằng trong các hạng.

Bất-chánh (014; 062): (Bất= chẳng; Chánh= chơn-chánh; đứng-đắn): Lời nói bất-chánh là lời nói chẳng ngay-thẳng, cong-queo, chẳng đúng lẽ phải. Trái nghĩa với Chơn-chánh.

Bất-diệt (040): (Bất= chẳng; Diệt = tiêu mất): chẳng hề chết đi mất. Bất-sanh bất diệt có nghĩa là chẳng hề được sanh ra; và vì chẳng có sự sanh, cho nên chẳng thể có sự chết. Cùng nghĩa với Vĩnh-cửu.

Biện-tài (007): (Biện = tranh-biện, luận-giải; Tài = khả-năng hơn người): có tài tranh-biện, luận-giải về đạo-lý.

Bình bát (007; 097): dụng-cụ bằng sành dùng đựng thức ăn, to như các nồi đất nhỏ, các Tì-kheo mang theo để khất-thực mỗi buổi sáng.

Bố-thí (007; 046): (Bố = rộng-rãi, cùng khắp; Thí = hiến-tặng, cho): một pháp lành đem chia xẻ những gì mình có đến những ai đang cần-dùng. Hạnh bố-thí rất cao-qúí, giúp đỡ người khác thiếu-thốn, đồng-thời giúp mình bỏ được tật rít-róng, keo-kiệt. (Pali: Dana; Hán-Việt phiên-âm: Đàn-na).

Bốn chúng đệ-tử của Phật (011): đây là bốn hàng đệ-tử của Đức Phật: (1) Tì-kheo, (2) Tì-kheo-ni, (3) Ưu-bà-tắc, (4) Ưu-bà-di. Hai hạng trước đã xuất-gia; còn hai hạng sau, tu tại nhà.

Bốn đại (064): Chữ Hán-Việt là Tứ-đại, tức là bốn nguyên-tố: (1) đất, (2) nước, (3) gió, (4) lửa; gọi là đại, là lớn, vì chúng có mặt khắp mọi nơi.

*



tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   59




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương