Kinh tì-kheo na-tiên càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753 Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu Nguồn



tải về 1.4 Mb.
trang2/59
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.4 Mb.
#19794
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   59

Nội-dung tập sách nầy gồm có:


A.- Bản Phỏng-dịch từ chánh-văn trong Đại-Tạng, còn thiếu tên tác-giả chữ Phạn và dịch-giả chữ Hán;
B.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ: từ-ngữ Phật-học được tra Từ-điển và giải-thích gọn, theo thứ-tự A, B, C;
C.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý: các câu vấn-đáp xếp lại thành 10 vấn-đề: 9 về giáo-lý, 1 về linh-tinh.
D.- Bản Phiên-âm Hán-Việt

Thân-kính tặng Quí-Vị Đạo-hữu Tổ-đình Từ-Quang và Thiền-viện Linh-Sơn,


để nhớ các buổi trưa nói chuyện Đạo vào dịp cuối tuần,

Thiện-Nhựt


Huỳnh-Hữu-Hồng

Vài cảm-nghĩ về Kinh Tì-kheo Na-Tiên


Bài Tham-luận thuyết-trình tại Tổ-đình Từ-Quang, Montreal, Canada
Khoá Nghiên-Tu An-Cư
Tháng Bảy 2005

1.- Tại sao tôi lại phỏng-dịch ''Kinh Na-Tiên''?


Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v. Tại Việt-Nam, đã có các bản dịch của các Cư-sĩ Đoàn-Trung-Còn, Cao-Hữu-Đính, và của Hòa-Thượng Giới-Nghiêm, rất phổ-biến. Tại sao Thiện Nhựt còn ''đèo-bồng'' mang ra dịch nữa?

1.- Thiện Nhựt học Kinh kệ Phật xuất-xứ từ Hán-Tạng, nên chỉ biết đọc và tìm hiểu các bản Kinh kệ được dịch ra tiếng Việt của các bực đại-sư Việt-Nam. Chẳng phải các Kinh sách chữ Anh, chữ Pháp quá khó-khăn, nhưng khi tìm hiểu về chúng, Thiện Nhựt cảm thấy chúng ''hơi xa lạ'' đối với người Việt có sức học trung-bình, tu theo đường-lối của ông-bà để lại. Như trong Hán-tạng dùng hai chữ Hỉ và Lạc để chỉ hai thiền-chi của Sơ-Thiền, các sách Anh-ngữ đã dịch ra là Joy, Happlness, Bliss... ; trong khi đó tiếng Việt thuần-túy của ta lại có hai chữ Mừng và Vui, rất dễ hiểu mà mô-tả rất rõ-ràng tâm-trạng của thiền-giả khi sắp bước vào định-tâm: Mừng thì thân còn đang xúc-động, tâm còn vọng-động. Vui thì khi nỗi mừng đã lắng-dịu, tâm-ý lâng-lâng, nhẹ-nhàng. Sao ta lại bỏ quên chẳng dùng những tiếng Việt thông-thường ấy để diễn-đạt hai thiền-chi đó, một cách giản-dị và rất chính-xác? Chính vì lẽ đó mà Thiện Nhựt đã mạo-muội đem bản văn Hán-tạng phỏng-dịch ra tiếng Việt thông-thường ngày nay, trước để cho mình tìm hiểu và học-hỏi bằng tiếng Việt, sau cũng có thể giúp được phần nào lợi-ích cho các bạn đạo cùng tu.

2.- Mỗi cuối tuần vào chùa lạy Phật nghe kinh, nhìn lên các tủ kiếng sắp hàng-hàng lớp-lớp các bộ Kinh chữ Hán trong Đại-Tạng, Thiện Nhựt chẳng khỏi bùi-ngùi nghĩ đến thân-phận dốt-nát của mình còn chưa dám mở một quyển nào ra đọc, vì lẽ vốn-liếng chữ Hán của mình quá ít-oi, hiểu được mặt chữ đã là khó, nói chi đến nghĩa-lý cao-siêu, huyền-diệu được ''gói-ghém kỹ'' trong các dòng chữ mà con mắt thịt mình nhìn thấy quá ư bí-hiểm! Các bộ Kinh được Việt-dịch cũng chẳng dễ chi mà hiểu cho tận-tường, vì lẽ còn nhan-nhản các danh-từ Phạn-ngữ được phiên-âm ra Hán-văn, có lẽ còn khó nghe hơn chữ Pali chánh gốc. Hoạ-hoằn lắm mới thấy nơi vài quyển, sau phần dịch-thuật và cước-chú, có năm ba trang hiếm-hoi ở phía sau, giải-thích vắn-tắt ý-nghĩa cao-sâu lời chư Phật và Bồ-tát mở lối cho con đường tu-tập. Người học Phật, với thành-tâm mong được giác-ngộ và giải-thoát, khó mà tìm thấy một quyển Kinh với đầy-đủ lời giải-thích bằng ngôn-từ thông-thường, cùng sự phân-tách rõ-ràng các điểm chánh-yếu cần lưu-tâm, để vững lòng bước đi, từ bước một, trên con đường học-hỏi giáo-lý nhà Phật. Nói tóm lại, còn chưa thấy có nhiều kinh-sách được soạn dưới hình-thức giáo-khoa-thư, để cho một người bập-bẹ mới biết học Phật như Thiện Nhựt có thể dùng làm quyển sách gối đầu giường mà học Kinh học Kệ. 

Nhân tìm thấy trong Hán-Tạng bản cổ-văn dịch từ chữ Phạn, bộ Luận Milinda panha, nhan đề là ''Na-Tiên Tì-Kheo Kinh'', thiếu tên dịch-giả, được sao-lục lại từ thời Đông-Tấn bên Tàu (khoảng thế-kỷ thứ 5), Thiện Nhựt mới mạo-muội đem ra ''phỏng-dịch'' thành tiếng Việt thông-thường ngày nay. Mục-đích chỉ là để có một bản Việt-văn mà học ôn lại giáo-lý, vì nội-dung bộ Luận nầy nêu ra gần trăm câu thắc-mắc, nghi-ngờ, của vua Milinda (Di-Lan) cùng với lời giải-thích khá rõ-ràng và đầy-đủ của Tì-kheo Nagasena (Na-Tiên) về Giáo-pháp của Đức Phật. Trong khi phỏng-dịch, Thiện Nhựt nhận thấy vài từ-ngữ chuyên-môn về Phật-học trong bản dịch Hán-văn hết còn thích-hợp với các thuật-ngữ ngày nay, như Ba-mươi-bảy Phẩm Kinh thay vì nói Ba-mươi-bảy Phẩm Trợ-Đạo, như Hiếu-thuận thay vì Giới-hạnh, như Danh-Thân thay vì Danh-Sắc, như Lộc riêng thay vì Nghiệp-lực, v.v. nên Thiện Nhựt muốn đề-nghị thay-thế bằng các danh-từ đang hiện-hành, nhưng chẳng dám tự-tiện sửa lại trong phần phỏng-dịch theo Hán-văn, mà chỉ xin ghi lại ở sau, nơi phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ. Và nhân đó, có chép lại hơn hai mươi trang lời giải-thích vắn-tắt các chữ khó, sắp-xếp theo thứ-tự A, B, C, để các bạn trẻ nào muốn dùng đến tập sách nhỏ ấy, khỏi phải mất công tra thêm Từ-điển.

Lại nữa, các câu hỏi thắc-mắc của vua Di-Lan thường là tùy-hứng, nghe giảng đến đâu thì hỏi đến đấy, chẳng theo một đề-mục nhứt-định nào, lại thêm được nhắc tới nhắc lui nhiều lần ở lắm chỗ khác nhau, nên Thiện Nhựt, khi tìm hiểu về ý-nghĩa giáo-lý trong quyển Luận nầy, thấy nên sắp xếp lại các câu hỏi đó ra mười vấn-đề, chín thuộc về giáo-lý và một về các câu hỏi linh-tinh có liên-quan đến kiến-thức tổng-quát. Khi sắp-xếp các câu hỏi của vua Di-Lan lại, đúng theo thứ-tự các vấn-đề giáo-lý, Thiện Nhựt có ghi lại trong phần Tìm hiểu Nghĩa Y của mình, các điểm bất-đồng ý-kiến với vị Tì-kheo lỗi-lạc, đó chẳng phải là dám khoe mình có ''biết chút đỉnh'' về giáo-lý, mà chính là để gợi lên cơ-hội cho các bạn trẻ, đem đặt lại vấn-đề với các vị Thầy dạy Đạo của mình, hầu có được lời giải-đáp thích-đáng (và nhớ làm ơn cho Thiện Nhựt biết với, để học hỏi thêm).

2.- Xuất-xứ của quyển ''Na-Tiên Tì-Kheo Kinh''.


Bộ Luận Milinda panha được ghi lại bằng tiếng Phạn, tác-giả là ai, hiện còn chưa được các học-giả về Phật-học trên thế-giới xác-định rõ. Bắc-Tông cho rằng Bồ-tát Long-Thọ (Nagarjuna) đã sáng-tác quyển nầy, vì Ngài muốn mượn tên của Na-Tiên (Nagasena) để đối-đáp về Giáo-pháp với vua Ménandre mà Ngài ám-chỉ là Di-Lan (bản dịch của đại-cư-sĩ Đoàn-Trung-Còn gọi là Di-Lan-Đà). Còn Hòa-thượng Giới-Nghiêm, nguyên Tăng-Thống Giáo-hội Phật-giáo Nguyên-thủy Việt-nam, ghi tên tác-giả là Ngài Pitakaculàbhaya, gốc người Trung-Ấn. 

Quyển Milinda panha được gọi là Kinh, vì được kết-tập trong hệ Pali nơi Tiểu-Bộ-Kinh (Khuddaka Nikaya). Bản dịch Hán-văn ''Na-Tiên Tì-Kheo Kinh'' được ghi trong Hán-Tạng, Càn-Long Đại-Tang Kinh, quyển số 108, các trang từ 706 đến 753. Đúng ra đó là một bộ Luận được một vị đại-sư trước-tác, sở dĩ được tôn-vinh là Kinh, có lẽ vì nội-dung cao-sâu tựa như lời của chư Phật hay Bồ-tát.

Các bạn thanh-niên nghiên-cứu về Phật-học có thể đòi hỏi thêm về tiểu-sử của tác-giả, cùng lý-do nào đã khiến tác-giả sáng-tác nên bộ Luận nầy. Đòi hỏi nầy rất chính-đáng khi ta cần nghiên-cứu kỹ-lưỡng một vấn-đề triết-học hay văn-chương. Nhưng Thiện Nhựt chẳng thấy có mảy-may thắc-mắc chi về các chi-tiết quan-trọng đó. Tại sao? Vì khi học Kinh-kệ, Thiện Nhựt chỉ cần biết đó là một bản Kinh được ghi trong Đại-Tạng, điều quan-trọng là tìm hiểu ý-nghĩa về lời dạy tu-tập, còn việc nghiên-cứu đúng theo các phương-pháp khoa-học của nhà khảo-cổ, thì xin kính-cẩn chờ sự chứng-minh chính-xác với đầy-đủ bằng-cớ của các bực đại-trí-thức. Lại nữa, mình đọc Kinh Phật chỉ cần hiểu và biết ứng-dụng lời dạy tu-tập về đường tu của mình, hơn là thắc-mắc về danh-xưng, tiểu-sử, v.v..., thí-dụ như trong Tâm-Kinh Bát-Nhã có nói đến Bồ-tát Quán-Tự-Tại, được các vị đại-sư giải-thích đó là tên khác của Bồ-tát Quán-Thế-Âm, mình cần chi thắc-mắc là đúng hay sai; còn chỗ đáng thắc-mắc là mình có theo Kinh đó để tu-tập tánh Không chưa, và nay đã tới mức nào rồi. Do đó, Thiện Nhựt đề-nghị nên xem bộ Luận ''Na-Tiên Tì-Kheo Kinh'' do một bực cổ-đức nào đó đã sáng-tác vào một thời xa-xưa, vậy thôi! 



tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   59




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương