Nguyễn Hiến Lê
hai chữ bên phải là
hai chữ ở dưới cùng là
Ý nghĩa là: Ngày Tân mão hỏi qủy thần (bói): ngày hôm nay, ngày Tân, có mưa hay không mưa?
Chúng ta thấy, chữ thời nay còn phảng phất như chữ thời đó, nhất là những chữ :
Nhưng trên nhữnggiáp cốt đó và cả trên những đồ đồng đời Thương, tuyệt nhiên không thấy hình bát
quái. Sự thực là từ đời Thương về trước chưa có bát quái. Người đời Thương chỉ mới biết lối bói
bằng yếm rùa gọi là bốc 卜. người ta lấy yếm chữ không phải mai con rùa (vì yếm mềm hơn, dễ nứt
hơn mai), dùng mủi nhọn đâm vào những chỗ lỏm, rồi hơ trên lửa những chỗ lõm đó nứt ra, rồi tùy
vết nứt có hình ra sao mà đóan quẻ tốt hay xấu.
Cuối đời Ân hay qua đời Chu người ta mới tìm được cách bói bằng cỏ thi (tiếng khoa học gọi là
Achillea sbirica), một thứ cây nhỏ cao khỏang một thước như cây cúc, có hoa trắng hoặc hồng nhạt.
Cách bói đó gọi là phệ 筮 và dùng bát quái mà đóan, giản dị hơn cách bói bằng yếm rùa. Vì hình nét
nứt trên yếm rùa đã không có hạn lại khó biện giải, còn những quẻ và hào trong phép bói bằng cỏ thi
đã có hạn, lại dưới mỗi quẻ, mỗi hào có lời đóan sẵn, nhất định, khi bói gặp quẻ nào, hào nào, cứ
theo lời đóan sẳn đó mà suy luận, công việc dễ dàng hơn nhiều. Vì vậy mà phép bói đo mới đầu gọi
là dị 易: dễ dàng. Chữ dị này với chữ dịch là một. Về sau, không biết từ thời nào mới gọi là dịch.
Theo thuyết đó của Dư Vĩnh Lương trong tập san Nghiên cứu Lịch sử ngôn ngữ của Trung Ương
nghiên cứu viện (Phùng Hữu Lan dẫn trongTrung quốc Triết học sử - Chương 15), thì bát quái chỉ có
thể xuất hiện trong đời Ân, từ cuối đời thương đến đầu đời Chu, và bát quái tạo ra chỉ để bói.
Lại còn một thuyết mới nữa của Trần Thực am trong tập Tiểu Học thức tự Giáo bản do Nghiêm Linh
Phong dẫn trong tập Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục ấn hành – Đài Bắc 1971) Trần thực
Am cho rằng bát quái chỉ là những con số thời xưa Trung hoa chưa dùng thập tiến pháp (numération
décimale), chưa đến mười chỉ 7 số thôi, tức chỉ dùng thất tiến pháp.
1,
Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |