Kinh đỊa tạng bồ TÁt bổn nguyện thiển thíCH



tải về 2.73 Mb.
trang5/32
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích2.73 Mb.
#31926
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   32

6) Chúng. "V́ Thánh Mẫu mà thuyết pháp" biểu thị thành tựu về chúng (Chúng thành tựu). 

Phật Mẫu Ma Da Phu Nhân là mẹ của cả ngàn đức Phật; và mỗi đức Phật sau khi thành Phật đều lên cõi trời Ðao Lợi thuyết Pháp cho mẫu thân nghe. 

Phật thuyết Pháp cần phải có Luân Vương (tức Chuyển Luân Thánh Vương) hoặc Ðế Thích đến thỉnh Pháp; thế thì lần này Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lên cõi trời Ðao Lợi thuyết Pháp, là do ai cung thỉnh? Ðó là do thân phụ của Phật cung thỉnh. Thân phụ của Phật, tức Luân Vương, nói với Phật rằng: "Xin Phật hãy đến cõi trời Ðao Lợi thuyết Pháp để cứu độ Phật Mẫu". Ðây là Luân Vương thỉnh cầu Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp. 

Cũng có sách chép là do Ðế Thích, thiên chủ cõi trời Ðao Lợi, thỉnh Pháp. Ngài vốn là cô gái nghèo tu sửa tháp miếu thuở xưa, và nhờ công đức ấy mà được làm Thiên Chủ Ðế Thích. Nhân biết được thân mẫu của Ðức Phật cũng ở cõi trời Ðao Lợi, Ðế Thích bèn thỉnh Phật đến đó thuyết Pháp. Có sách thì chép như vậy; song, bất luận thế nào, nói tóm lại là Phật thuyết Pháp thì phải có người thỉnh Pháp.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp gì cho Phật Mẫu nghe? Phật thuyết Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, một giáo pháp về hiếu đạo. 

Chúng ta, ai ai cũng phải hiếu thảo với cha mẹ; vì sao? Vì cha mẹ là gốc rễ của con người - chúng ta hiếu thảo với cha mẹ thì cũng giống như tự chăm bón, vun bồi cái gốc của chính mình vậy. Cho nên, kẻ bất hiếu thì tương lai chắc chắn chẳng có triển vọng gì. Người biết hiếu thảo với cha mẹ, tức là biết chăm sóc, bồi đắp gốc rễ của mình cho vững chắc, thì tiền đồ nhất định sẽ huy hoàng, xán lạn. Có câu:

“Gốc vững cành nhiều, rễ sâu lá tốt.” 

(Bổn cố chi vinh, căn thâm diệp mậu.) 

Nghĩa là cái gốc mà được vun phân tưới nước, chăm sóc kỹ lưỡng thì cây sẽ đâm chồi nẩy lộc; rễ mà bám sâu vào đất thì cành lá sẽ sum xuê, tươi tốt. 

Như vậy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì mẹ mà tuyên thuyết giáo pháp về hiếu đạo này. Và, phần tiếp theo sau là các đạo lý mà Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng cho Thánh Mẫu nghe.

Kinh văn:

Lúc ấy, không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật và Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp...

Lược giảng:

"Vô lượng thế giới ở mười phương" là thuộc về Y Báo; "không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật và Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát" là Chánh Báo. "Người" là Chánh Báo, "thế giới" là Y Báo - đó gọi là "Y, Chánh Nhị Báo." 

"Lúc ấy" (nhĩ thời) tức là đương thời, lúc bấy giờ. Nay tôi dùng năm thứ thời điểm để giảng, vì có năm cách giải thích từ ngữ "lúc ấy" này: 

1) Lúc muốn nói (dục thuyết thời), lúc đương nói (chánh thuyết thời), lúc nói xong (dĩ thuyết thời). "Lúc ấy" tức là chỉ cho thời điểm mà Phật bằng lòng thuyết Pháp, muốn nói Pháp. "Lúc ấy" lại là đúng ngay lúc Phật muốn thuyết thứ Pháp về hiếu đạo; và"lúc ấy" cũng chính là khi Phật đã nói xong Pháp hiếu đạo đó. Ðây là cách giải thích thứ nhất về từ "lúc ấy."

2) Lúc phá ngoại đạo. Những pháp mà hàng ngoại đạo nói thì không có quá khứ, cũng chẳng có hiện tại hoặc vị lai; mà chỉ nói một cách chung chung, rất mơ hồ. Cho nên, bây giờ đã đến lúc Phật thuyết thứ Pháp có đủ ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai để đả phá ngoại đạo. Ðây là ý nghĩa thứ hai của từ ngữ "lúc ấy."

3) Lúc gieo hạt (hạ chủng thời). Gieo hạt tức là vùi hạt giống xuống dưới đất. Có gieo hạt tất sẽ có lúc thu hoạch, chín muồi. Sau khi chín muồi thì thế nào? Thì đến "giải thoát thời" -  tức là lúc được giải thoát. Ðây cũng là một hàm nghĩa của từ ngữ "lúc ấy." 

"Lúc gieo hạt" cũng có nghĩa là lúc chưa trồng thiện căn, hoàn toàn không có căn lành. Như trường hợp của lão ông nọ - ông vốn muốn xuất gia nhưng khi các bậc A La Hán quán sát thấy rằng trong tám vạn đại kiếp ông ta không hề trồng được một mảy may thiện căn nào cả, bèn khước từ, không chịu thâu nạp ông ta vào hàng ngũ xuất gia. Có câu:

Chớ bảo xuất gia là chuyện dễ, 

Ấy do nhiều kiếp trồng Bồ Đề.

(Mạc đạo xuất gia dung dị đắc, 

Giai nhân lũy thế chủng Bồ Đề.) 

Vì vậy, những người đời này hiện đã xuất gia ắt hẳn trong tám vạn kiếp về trước đã có gieo trồng thiện căn rồi, nên nay mới được như thế. Chớ nên cho rằng việc xuất gia là tùy tiện, dễ dàng.

Ðối với những người đến nay vẫn chưa hề trồng thiện căn, Phật dạy họ trồng thiện căn. Ðối với những ai chưa biết niệm Phật thì Phật dạy họ niệm Phật, chưa biết trì Chú thì dạy họ trì Chú; bởi đó cũng là trồng thiện căn, gieo hạt giống tốt lành. Ðã gieo hạt, đã có trồng thiện căn rồi, thì sẽ có sự nẩy mầm, tăng trưởng; và sau đó sẽ đến giai đoạn thành thục, chín muồi. Như làm ruộng chẳng hạn, mùa xuân gieo mạ thì sang mùa thu gặt hái, tức là bước sang giai đoạn chín muồi. Tuy nhiên, nếu lúa chín rồi mà không kịp thời gặt hái, để mãi ngoài đồng ruộng, thì cũng chẳng có ích lợi gì. Thu hoạch được lúa thóc, đem hoa lợi về - đó gọi là đạt được sự giải thoát vậy.

Ðây là ngụ ý rằng những người chưa trồng thiện căn thì hãy chăm chỉ gieo trồng thiện căn; còn những người đã trồng thiện căn thì nên cố gắng tu hành, xuất gia làm Tăng, Ni. Làm Tăng, Ni thuần thục rồi thì phải thành Phật, phải chứng quả vị - chứng quả vị là được giải thoát.

Thế nên, quý vị nghe giảng kinh, chớ nên nói rằng: "Tôi nghe hai lần rồi, không cần nghe thêm nữa!" Quý vị nghe càng nhiều thì càng biết được nhiều vấn đề, nếu không nghe nhiều thì kiến thức sẽ không tăng trưởng và không lãnh hội được tri thức của Phật Học.

4) Thời điểm của vị Thầy chân chánh (chánh sư) -. Muốn học Phật Pháp th́ cần phải có bậc Thầy chân chánh (chánh sư), với giáo pháp chân chánh (chánh giáo) và sự học tập chân chánh (chánh học). Nếu quư vị không học tập một cách chân chánh, nghiêm túc, th́ dù có gặp được chánh giáo cũng chẳng ích lợi ǵ. Lại nữa, nếu quư vị gặp được chánh giáo và quư vị cũng có ḷng muốn học hành đàng hoàng, chăm chỉ, nhưng không có một vị Thầy chân chánh hiểu rơ Phật Pháp hướng dẫn cho, th́ quư vị cũng không học tập ǵ được. Cho nên, "lúc ấy" cũng có nghĩa là thời điểm hội đủ chánh sư, chánh giáo, chánh học. 

5) "Lúc ấy" là lúc Phật bằng ḷng thuyết Pháp, đồng thời cũng là lúc chúng sanh muốn nghe Pháp. Sự nghe Pháp và thuyết Pháp xảy ra cùng một lúc, cơ duyên giáo hóa tương ưng, không cao không thấp, chẳng sâu chẳng cạn. Phật thuyết pháp nào th́ có chúng sanh thích hợp với giáo pháp đó đến nghe. Đây gọi là "Phật muốn thuyết, chúng sanh muốn nghe" - thích hợp với căn cơ mỗi người, không có sự cao thấp. 

Trên đây là năm ư nghĩa của từ ngữ"lúc ấy." Tóm lại, trong bộ Kinh này: 

- "như vầy" là thành tựu về Tin cậy (Tín thành tựu)., 

- "tôi nghe" là thành tựu về Nghe (Văn thành tựu)., 

- "một thuở nọ" là thành tựu về Thời điểm (Thời thành tựu), 

- "Phật" là thành tựu về Chủ (Chủ thành tựu), 

- "cung trời Đao Lợi" là thành tựu về Nơi chốn (Xứ thành tựu), 

- "v́ Thánh Mẫu mà thuyết pháp" là thành tựu về Chúng (Chúng thành t ựu). 

Tuy nói rằng Đức Phật v́ Phật Mẫu mà thuyết pháp, nhưng trên trời cũng có thiên chúng đến nghe. Ngoài ra, c̣n có người ở nhân gian lên trời dự Pháp Hội nữa - riêng Đức Phật là đă có đến một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử thường xuyên đi theo Ngài rồi. Như vậy, Nhân Đà La Da, thiên chủ cơi trời Đao Lợi, làm Hộ Pháp Chủ, tức là trai chủ thỉnh pháp. Tuy nói Đức Phật "v́ Thánh Mẫu mà thuyết pháp," nhưng thật ra cũng là thuyết pháp cho toàn thể đại chúng; do đó, câu này là tiêu biểu cho Chúng thành tựu. 

Vậy, trên đây là Sáu Lọai Thành Tựu (Lục Chủng Thành Tựu). 

Lúc ấy, không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật và Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát... "không thể nói hết" tức là nói không xuể, kể không xiết, không có đủ ngôn từ để diễn đạt. "Ma Ha Tát" là bậc Ðại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát, là những chúng sanh có Ðạo tâm rộng lớn. Lúc bấy giờ, có vô số kể chư Phật và chư Ðại Bồ Tát, đông đảo đến không thể nói được là bao nhiêu, từ trong vô lượng thế giới ở mười phương, tận cùng hư không và khắp Pháp Giới, đều đến hội họp tại cung trời Ðao Lợi. 

Quý vị xem, khi Phật thuyết Kinh Ðịa Tạng, mười phương chư Phật và chư Ðại Bồ Tát đều tề tựu lắng nghe, thế thì hạng phàm phu chúng ta càng cần phải đến tụ họp để nghe Pháp hơn nữa!

Hiện nay chúng ta khai đàn giảng Kinh Ðịa Tạng tại đạo tràng này, thì mười phương chư Phật và chư Bồ Tát cũng tựu về nơi đây. Nếu có Phật Nhãn, quý vị sẽ thấy được vô lượng vô biên, không thể nào đếm xuể chư Phật và chư Ðại Bồ Tát từ khắp mười phương đến đây để hộ trì Pháp Hội giảng kinh này.

Kinh văn:

... tán thán Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác Ngũ Trược mà hiện sức Ðại Trí Huệ, Thần Thông không thể nghĩ bàn...

Lược giảng:

Tất cả chư Phật và Ðại Bồ Tát trong mười phương đều đến cung trời Ðao Lợi và tất cả các ngài cùng tán thán Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. 

"Tán" là xưng tán;"thán" là thán thưởng - "tán thán" có nghĩa là tấm tắc khen ngợi, hết lời ca tụng. 

"Thích Ca Mâu Ni" là tiếng Phạn."Thích Ca Mâu Ni" là tên riêng -  "Thích Ca" là họ và"Mâu Ni" là tên - còn"Phật" là tên chung. Tất cả Ðức Phật đều được tôn xưng là"Phật," nhưng mỗi Ðức Phật đều có một danh hiệu riêng biệt (biệt danh)."Thích Ca" có nghĩa là"năng nhân," hàm ý rằng Ngài có năng lực dùng đức nhân từ để phổ độ tất cả chúng sanh."Mâu Ni" tức là"tịch mặc," ngụ ý"bất động.""Tịch" là tịch tĩnh,"mặc" là mặc nhiên - "tịch tĩnh mặc nhiên" chính là trạng thái tĩnh lặng, không có âm thanh, chẳng còn mùi vị. Trong Nho Giáo có câu: 

“Đến chỗ tột cùng của tĩnh lặng, không thêm được nữa! Không âm thanh, chẳng mùi vị. " 

(Chí ư tĩnh, vô dĩ phục gia hề! Vô thanh, vô khứu.) 

 

Âm thanh không c̣n, mùi vị cũng hết - đây chính là lúc con người đạt đến bản thể tịch nhiên bất động."Tịch nhiên bất động" chính là Định;"năng nhân" chính là Huệ. 



V́ sao Phật có thể dùng ḷng nhân từ để tế độ chúng sanh? Bởi v́ Phật có trí huệ."Năng nhân" cũng có nghĩa là tùy duyên;"tịch mặc" cũng chính là bất biến. Đức Phật th́ thường bất biến, song cũng luôn tùy duyên; tuy luôn tùy duyên, nhưng vẫn thường bất biến. Mặc dù ở trong Định tịch nhiên bất động, Phật vẫn có thể cảm thông linh ứng. Cho nên nói: 

“Mọi tâm tưởng của chúng sanh, Phật đều có thể thấy, nghe và rơ biết.” 

(Nhất thiết chúng sanh nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri tất kiến.) 

Mọi tâm tưởng của chúng sanh, bất luận nhiều hay ít, Phật đều có thể thấy, nghe và rơ biết tất cả. V́ sao Phật có thể thấy biết tất cả? Chính là nhờ"năng nhân, tịch mặc." Bởi Đức Phật có thể"năng nhân" nên Ngài thấy rơ được tất cả; và nhờ có thể"tịch mặc" nên Phật thấu suốt hết mọi sự. Do đó, quư vị đừng lầm tưởng rằng không ai hay biết những việc ḿnh làm, bởi Phật có thể thấy biết tất cả. 

Chúng ta tu Đạo, hễ trong ḷng có một phần chân thành th́ sẽ được một phần cảm ứng, có mười phần chân thành th́ sẽ được mười phần cảm ứng. Nếu tâm quư vị có trăm ngàn vạn ức phần chân thành, th́ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dù đang ở vị trí"bổn giác tịch nhiên bất động," cũng có thể cảm thông linh ứng mà giúp cho quư vị được toại nguyện, khiến cho quư vị được sớm thành tựu Đạo nghiệp. 

Trên đây là ư nghĩa của bốn chữ"Thích Ca Mâu Ni." 

"Phật" là gọi tắt từ chữ"Phật Đà Da," và vốn là tiếng Phạn. Vậy th́ Phật là người như thế nào? Phật chính là một bậc Đại Giác Ngộ. Phật có đủ Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Măn - bởi Ngài là"Tam Giác viên măn, vạn đức đủ đầy" nên được thành Phật. Cũng có thể nói Tam Giác tức là Thủy Giác, Bổn Giác và Cứu Cánh Giác - ba loại giác ngộ này đều hoàn toàn viên măn nên được thành Phật. Nếu chúng ta có thể y theo giáo pháp của Phật mà chân chánh tu hành, th́ chúng ta cũng sẽ đạt được loại giác ngộ và quả vị này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy: 

 Tất cả chúng sanh đều có thể làm Phật! 

(Nhất thiết chúng sanh giai kham tác Phật!)
 

V́ sao hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật? Bởi v́ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh! Cho nên, chỉ cần chịu cố gắng, nỗ lực tu hành, th́ chắc chắn tất cả chúng ta đều sẽ được thành Phật. 

Có thể ở trong đời ác Ngũ Trược. "Đời ác" tức là một thế giới xấu xa nhất. Ngũ Trược tức là năm thứ ô trược, dơ bẩn; đó là: Kiếp Trược (thời đại này hết sức ô uế, bất tịnh), Kiến Trược (con người có những kiến giải hết sức tà vạy, bất chánh), Phiền Năo Trược (trong ḷng con người chứa đầy phiền năo, như thế là bất tịnh), Chúng Sanh Trược (chúng sanh cũng bất tịnh, không trong sạch), và Mạng Trược (thân mạng này của chúng ta cũng ô trược, bất tịnh). 

Theo Kinh Lăng Nghiêm, nếu ta bỏ một nắm đất vào chậu nước trong, th́ công năng vốn có của đất và nước sẽ bị mất đi. 

Vậy công năng vốn có của đất (thổ) là ǵ? Là "lưu ngại" (lưu giữ, ngăn ngại)! Đất (thổ) có tánh gây chướng ngại cho nên con người có thể đi lại trên đất. Nếu không có đất, chúng ta sẽ bị rơi vào biển cả, bởi bên dưới đất là nước, nước có thể cuốn trôi đất. Bên dưới nước lại là lửa; cho nên có lúc núi lửa bộc phát là do tác dụng của một sự biến hóa. Nếu nói rằng bên dưới nước là lửa, vậy lửa này không bị nước dập tắt sao? V́ lửa cháy quá dữ dội nên nước không dập tắt nổi! Muốn hiểu thấu đạo lư này th́ quư vị phải nghiên cứu Phật Pháp thâm sâu hơn nữa mới được. 

Kinh Lăng Nghiêm cũng có chép: “Khi nước và đất trộn lẫn, th́ đất mất tánh lưu ngại, nước mất tánh thanh khiết.” (Thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết.) 

Bởi nước bị vẩn đục, mất đi sự thanh khiết, cho nên gọi là "trược." Cõi "Ngũ Trược ác thế" này ví như vũng bùn dơ bẩn - một hỗn hợp của nước và đất. Ðây là một thế giới không thanh tịnh bởi có sự hiện hữu của năm thứ ô trược:

1) Kiếp Trược. "Kiếp" là danh từ chỉ thời gian. Thời gian thì ô trược bởi chúng ta không thể phân định một cách rõ ràng là khi nào, thời điểm nào. Trước kia có người hỏi tôi, thế nào gọi là thời gian? Thật ra, không có cái gọi là "thời gian," không thể nào định rõ được thời gian. Ðó là Kiếp Trược.

2) Kiến Trược. Quý vị nghĩ xem, chúng ta có thể phân biệt cái "thấy" của mình một cách rõ ràng hay không? Tất nhiên là không thể được! Chúng ta có thể phân ranh giới cho cái"thấy" của mỗi người hay không? Cũng không được! Bởi nếu quý vị nói rằng đây là cái "thấy" của quý vị, kia là cái"thấy" của tôi; thế thì quý vị lấy gì làm ranh giới để phân biệt giữa cái "thấy" của quý vị và cái "thấy" của riêng tôi? Chính vì cái "thấy" ấy là một hỗn hợp lộn xộn, không có ranh giới, không thể phân định rõ ràng, nên gọi là Kiến Trược.

3) Phiền Não Trược. Mọi người đều có phiền não - quý vị có phiền não, tôi cũng có phiền não - phiền não của chúng ta trộn lẫn, xen lộn với nhau, không cách nào phân định cho rõ được. 

Có người nói: "Tôi thừa biết rằng phiền não của tôi là của tôi, phiền não của Thầy tức là của Thầy - của ai cứ nấy!" Nếu nói như thế thì tại sao quý vị lại có thể gây phiền não cho tôi được? Nếu quả thật phiền não là của tôi thì đáng lẽ không cần quý vị gây ra mới phải; còn nếu đó đích thật là của quý vị, thì tất nhiên cũng không cần tôi gây ra, không cần tôi làm cho quý vị sanh phiền não mới đúng chứ?! Như vậy, xét ra thì phiền não cũng không có ranh giới rõ rệt và cũng là một hỗn hợp ô trược, bất tịnh.

4) Chúng Sanh Trược. Có những chúng sanh đời này mang thân người, song biết đâu chừng đời sau lại phải đầu thai làm chó, làm mèo, làm chuột, hoặc làm côn trùng bò lung tung khắp nơi... - không có gì là nhất định cả. Như thế thì làm sao quý vị có thể phân biệt một cách rõ ràng được? Chúng sanh với chúng sanh cùng nhau hợp tác để mở một "đại công ty," cũng không phân biệt nhau được rõ ràng. Trong "đại công ty" này, nếu không phải mình bị người ta đem bán, thì cũng là người ta bị mình đem bán - tất cả đều có quan hệ qua lại với nhau. Như thế không phải là "trược" sao? Vậy, đó gọi là Chúng Sanh Trược.

5) Mạng Trược. Vận mạng của chúng ta cũng là hỗn trược, bất tịnh.

Mặc dù năm thứ ô trược này rất phức tạp, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn có thể ở trong đời ác Ngũ Trược - một thế giới xấu xa nhất - mà hiện sức Ðại Trí Huệ và Thần Thông không thể nghĩ bàn. "Không thể nghĩ bàn" tức là vô cùng vi diệu, chúng ta không tài nào nghĩ ra hoặc mường tượng ra được. Thứ gì mà vi diệu, không thể nghĩ bàn như thế? Ðó chính là năng lực từ Ðại Trí Huệ và Ðại Thần Thông của Ðức Phật.

Kinh văn:

...điều phục những chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Rồi mỗi Ngài đều sai thị giả đến vấn an Ðức Thế Tôn. Bấy giờ, Ðức Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn...

Lược giảng:

Ðiều phục những chúng sanh cang cuờng. "Ðiều" là điều hòa,"phục" là hàng phục. Sao gọi là "điều hòa"? Chúng ta muốn cho thức ăn có hương vị ngon lành thì phải nêm nấu sao cho năm vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn được điều hòa, vừa phải. Nếu thức ăn cay quá thì người không quen ăn cay sẽ không ăn được; chua quá thì người không thích chua sẽ không đụng đến; đắng quá thì cũng có người không thích; mà ngọt quá thì cũng có người chê, chẳng muốn ăn! Cho nên các thứ gia vị phải điều hòa, mỗi loại chỉ nêm vừa phải, không nhiều không ít, để có được mùi vị thích đáng. 

Mọi người thường chỉ thích thưởng thức các món ăn hợp khẩu vị của mình. Tương tự như thế, về Phật Pháp thì có người thích pháp môn này, có người thích pháp môn kia. Về tín ngưỡng thì có người tin Gia Tô Giáo, có người tin Hồi Giáo, có người theo Ðạo Giáo (đạo Lão), có người theo Nho Giáo (đạo Khổng). Khổng, Lão, Phật, Gia, Hồi là năm tôn giáo lớn trên thế giới. Tuy nói là năm, nhưng trên thực tế thì chỉ là một. Vì sao lại là một? Bởi pháp mà Ðức Phật nói ra thì "mọi pháp đều là Phật Pháp," và trong đó bao hàm tất cả các pháp môn của mọi tôn giáo. Bất luận là Gia Tô Giáo, Hồi Giáo, Ðạo Giáo, hay Nho Giáo, hết thảy đều được bao gồm trong "mọi pháp," đều không ở ngoài "mọi pháp." Không một tôn giáo nào có thể nói là không có giáo pháp; bởi vì nếu nói như thế tức là ở ngoài"mọi pháp," mà ở ngoài  mọi pháp" thì hoàn toàn không có một pháp nào cả! 

"Mọi pháp" đều là Phật Pháp và đều là "bất khả đắc" - đều không thể chứng đắc. Thể hội được "mọi pháp" đều không hiện hữu thì mới gọi là chân chánh "về tới nhà." Tôi không hề nói rằng tôi có phương pháp đặc biệt này hoặc món ăn ngon lành nọ để dụ dỗ, lừa phỉnh quý vị. Bởi thực sự là không có, cái gì cũng không có cả! Xưa nay vốn không có cái gì cả! Vì sao lại biết được xưa nay cái gì cũng không có? Lục Tổ Ðại Sư từng dạy:

"Bồ Ðề vốn không thân,

Gương sáng cũng không đài,

Xưa nay không một vật,

Nơi nào bụi bám đây?"

Xưa nay vốn không có, vậy phải đến nơi nào để tìm chỗ cho bụi bám? Hoàn toàn không có! Vậy thì còn tìm bụi bặm gì nữa? Nếu quý vị có một món đồ cụ thể thì còn có chỗ cho bụi bám, nhưng vì không có đồ vật gì cả, do đó bụi bặm cũng không có chỗ để bám vào. Cho nên, người thông hiểu đạo lý thì biết rằng"mọi pháp đều là Phật Pháp."

Tuy nhiên, "pháp" thì có pháp đúng và pháp sai; có pháp rốt ráo và pháp không rốt ráo; có pháp thiện và cũng có pháp ác. Chúng ta tu hành thì phải tu pháp rốt ráo (cứu cánh pháp). 

Hãy nêu một ví dụ: Từ Châu Mỹ sang Châu Âu, nếu quý vị đi bằng máy bay thì nhất định sẽ mau chóng tới được nơi sở định; còn nếu theo đường bộ thì quý vị nghĩ phải mất bao lâu? Ngoài việc đi bộ vất vả trên đất liền, quý vị còn phải trải qua những gian khổ của đường biển nữa. Lúc gặp biển tất phải dùng thuyền để vượt biển, mà thuyền thì đi rất chậm, phải mất rất nhiều thời gian; trong khi nếu đáp máy bay thì lại rất nhanh. 

Tương tự như thế, chúng ta tu pháp không rốt ráo thì phải tu trong một thời gian rất lâu mới được "về tới nhà" (thành Phật). Song, nếu tu pháp rốt ráo thì chẳng mấy chốc là chúng ta "về tới nhà" ngay, rất nhanh chóng. Như thế, pháp không rốt ráo là gì? Ðó là tất cả các pháp của ngoại đạo. Ðúng vậy, tu pháp không rốt ráo cũng có được đôi chút lợi ích, nhưng rất chậm. Tu pháp rốt ráo tức là y chiếu theo giáo pháp của Ðức Phật mà tu hành.

Ðể điều phục, cảm hóa những chúng sanh cang cường, trước hết, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni không nói thẳng với họ rằng nóng giận là không tốt; Ngài chỉ nói: "Này! Nóng tánh cũng không đến nỗi nào, vì phiền não chính là Bồ Ðề. Ngươi có tánh nóng nảy đấy, song cũng chẳng sao - phiền não là Bồ Ðề, sanh tử là Niết Bàn!" 

Phật làm cho họ cảm thấy:"Mình có tánh nóng nảy nhưng không phải là người xấu. Ðành rằng mình rất nóng tánh, nhưng tâm Bồ Ðề của mình cũng đâu phải nhỏ! "Thế là họ quyết định thử tu sửa tâm tánh xem sao; và càng thử thì họ càng nhận thấy rằng hễ phiền não giảm bớt thì Bồ Ðề lại gia tăng. Phiền não càng ngày càng giảm thì Bồ Ðề càng ngày càng tăng. Giảm được phiền não, thì đó chính là Bồ Ðề vậy. Cho nên, đối với những chúng sanh tánh tình cang cường, ương ngạnh, thì Ðức Phật giảng nói thứ pháp như thế.

Còn đối với những chúng sanh nhu nhược thì sao? Những chúng sanh nhu nhược tức là những kẻ nhút nhát, từ sáng đến tối họ cứ hồi hộp sợ sệt; thậm chí tiếng mèo kêu hay tiếng chó sủa cũng làm cho họ giật mình run sợ, hồn phiêu phách tán. Bất cứ một động tĩnh gì cũng có thể làm cho họ hốt hoảng được cả; cho nên, Ðức Phật phải dùng lời dịu ngọt như dỗ dành trẻ con mà vỗ về những chúng sanh nhút nhát đó:"Con đừng sợ. Hãy bình tâm mà học Phật Pháp, Phật sẽ giúp đỡ và phù hộ cho con!" Các chúng sanh ấy nghe được liền cảm thấy an ủi phần nào, trong lòng thầm nghĩ rằng lời nói của người này thật đáng tin cậy; và thế là họ dốc lòng tin tưởng Phật Pháp. Sau khi tin và học Phật Pháp, họ càng ngày càng bớt nhút nhát, càng ngày càng mạnh dạn, can đảm thêm. 

Ở Hồng Kông, tôi có một đệ tử quy y vốn tánh nhút nhát. Khi chưa quy y, anh ta rất sợ ma và sợ bóng tối. Trời vừa nhá nhem tối là anh ta không dám bước chân ra khỏi cửa, tánh rất nhát gan. Cho dù trong nhà có đông người, anh ta cũng vẫn cứ nơm nớp sợ hãi, cứ cảm thấy xung quanh mình - trái, phải, trước, sau - chỗ nào cũng có ma cả. Tuy chưa bao giờ gặp ma, nhưng anh ta lại rất sợ ma! Sau khi anh ta quy y Tam Bảo, mặc dù tôi không niệm Chú cũng chẳng làm phép thuật gì cho anh ta cả, nhưng kể từ đó thì anh ta không còn thói hay sợ sệt nữa - không sợ ma mà cũng chẳng sợ bóng tối. Ban đêm ở nhà một mình cũng không sợ, đi đâu lúc trời tối cũng không sợ. Cho nên, đối với những chúng sanh không có lòng gan dạ, thì chúng ta cần phải giúp đỡ, khiến họ có can đảm.

Ngoài ra, đối với những chúng sanh hay khóc, thì quý vị nên khuyên họ chớ khóc lóc nữa, mà hãy sanh tâm hoan hỷ, vui vẻ. Tóm lại, chúng sanh thường mang nhiều thành kiến lệch lạc, tánh tình cũng thiên vị, quá quắt; cho nên chúng ta phải tìm cách làm cho họ trở về với trung đạo, giữ được mức quân bình - như thế gọi là "điều phục" vậy.

Khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Ðức Phật có thể điều phục các chúng sanh ương ngạnh, bướng bỉnh và làm cho họ hiểu rõ thế nào là khổ, thế nào là vui. Những chúng sanh này vì ương ngạnh cho nên khổ họ cũng bất chấp mà sướng họ cũng bất cần. Thế nào là khổ, thế nào là sướng? Họ chẳng hề để ý tới! Vì tánh ương ngạnh, khổ hay sướng họ đều không sợ; họ cứ sống một cách không lo không buồn, không khổ không sướng như thế. 

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có khả năng làm cho các chúng sanh ương ngạnh này biết được thế nào là "chân khổ" (đau khổ thật sự) và thế nào là "chân lạc" (an vui thật sự). Rốt cuộc, cái gì là "chân khổ"? Ðọa lạc chính là "chân khổ." Bị đọa xuống địa ngục, bị đọa làm ngạ quỷ, súc sanh - đó đều là"chân khổ." Cái gì là "chân lạc"? Ðược khai ngộ, chứng quả (như quả vị A La Hán chẳng hạn), thực hành Bồ Tát Ðạo - đó đều là"chân lạc" vậy. "Khổ" vốn rất nhiều loại, "vui" cũng rất nhiều thứ, song chúng ta bây giờ biết được ý nghĩa tổng quát là được rồi. Vậy, "biết được pháp khổ, pháp vui" tức là biết được "mùi vị" của đau khổ và của an vui.

Rồi mỗi Ngài đều sai thị giả đến vấn an Ðức Thế Tôn. Các vị Ðại Bồ Tát, Ma Ha Tát ở khắp mười phương quốc độ đều không đi một mình. Mỗi Bồ Tát thường dẫn theo một, hai, ba hoặc bốn thị giả; có vị lại thích dắt theo nhiều thị giả, có khi đông tới mấy trăm, mấy ngàn, mấy vạn thị giả. Lúc bấy giờ, mỗi vị Bồ Tát đều phái người thị giả theo hầu bên cạnh mình đến hỏi thăm Ðức Phật. Hỏi thăm như thế nào? Họ đồng đến trước mặt Phật và thưa hỏi rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, chẳng hay Ngài có được ít bệnh, ít phiền não chăng? Ngài có được an vui chăng? Chúng sanh có dễ độ chăng?" Các thị giả đều hỏi han Ðức Thế Tôn như vậy. 

Bấy giờ, Ðức Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn. Khi ấy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni mỉm cười - không phải cười lớn mà là cười chúm chím - và phóng ra hàng trăm ngàn vạn ức đám mây sáng to lớn.



tải về 2.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương