Kinh đỊa tạng bồ TÁt bổn nguyện thiển thíCH


V) Dịch Giả Truyền Dịch (Truyền Dịch Sử Giả)



tải về 2.73 Mb.
trang4/32
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích2.73 Mb.
#31926
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   32

V) Dịch Giả Truyền Dịch (Truyền Dịch Sử Giả)


Yếu tố thứ năm là Dịch Nhân (Truyền Dịch Giả), tức là giới thiệu người có công phiên dịch bộ Kinh. 

Về dịch giả của Kinh Ðịa Tạng, thì có sách chép là do Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng phiên dịch. Pháp Sư Pháp Ðăng vốn là người Trung Hoa, khoảng đời nhà Hậu Trần. Tuy nhiên, phần lớn các sách lại chép rằng Kinh Ðịa Tạng là do Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Ðà (Siksananda), người xứ Vu Ðiền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Ðường của Trung Hoa. 

Vào đời Ðường, có một quốc gia tên là Vu Ðiền, nằm khoảng phía trên vùng biên giới của tỉnh Vân Nam ngày nay. 

"Vu Ðiền" là tiếng Phạn, dịch là "Ðịa Nhũ," nghĩa là "đất có sữa chảy ra." Xuất xứ của cái tên này nghe như chuyện thần thoại, chuyện thần thoại ấy như thế nào? Tên ngày xưa của nước này là gì thì chúng ta không thể nào tra cứu được nữa. Chỉ biết tương truyền rằng, khi xưa, thuở chưa mang tên Vu Ðiền, nước này có một ông vua vì chưa có con trai nối dõi bèn đến một ngôi miếu nọ để cầu tự. Kết quả là có một đứa bé được sinh ra từ trán của tượng Thần miếu. Qúy vị nghĩ rằng có chuyện đó hay không? Ðứa bé nọ không chịu bú sữa, bất kể là sữa mẹ hay sữa bò. Về sau, trên mặt đất bỗng xuất hiện một vật hình thù giống như cái vú và có sữa chảy ra; đứa bé chỉ chịu bú thứ sữa ấy. Vì thế, từ đó quốc gia này có tên là "Vu Ðiền," tức "Ðịa Nhũ Quốc." Qúy vị nghĩ xem, đó có phải là thần thoại không?

Như vậy, tại nước Ðịa Nhũ (Vu Ðiền) ấy có một vị Tam Tạng Sa Môn tên là Thật Xoa Nan Ðà. "Sa Môn" là tiếng Phạn và có nghĩa là "cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt Tham Sân Si"; đồng nghĩa với từ ngữ "Sa Di." "Cần tu," tức là siêng năng cần mẫn, không biếng nhác. Qúy vị chớ cho rằng ngủ nhiều là tốt. Ngủ nhiều thì có thể qúy vị cảm thấy khỏe khoắn về thể xác; song đối với Pháp thân thì không ích lợi gì cả. Cho nên, cần phải siêng năng tu tập Giới Ðịnh Huệ, hăng hái dẹp trừ Tham Sân Si.

"Thật Xoa Nan Ðà" là tiếng Phạn, dịch ra Trung văn là "Hỷ Học." Vị Sa Môn này không lười biếng, Ngài rất hoan hỷ và rất thích học Phật Pháp, học Chú Lăng Nghiêm, Chú Ðại Bi cũng như nhiều kinh điển khác, cho nên Ngài có tên là Thật Xoa Nan Ðà.

"Dịch" tức là phiên dịch; trong trường hợp này là phiên dịch từ Phạn văn sang Trung văn. "Dịch" cũng có nghĩa là hoán đổi; hoán đổi cái gì? Ðó là chiếu theo nguyên bản bằng tiếng Phạn mà chuyển đổi thành tiếng Trung Hoa. Dưới triều đại nhà Chu của Trung Hoa, có một chức quan đặc trách về ngôn ngữ của bốn phương. Ở phương Bắc, chức quan này được gọi là "Dịch," nghĩa là vị quan trông coi việc phiên dịch; cho nên về sau người ta đều gọi phiên dịch là "dịch."

VI) Giảng Giải Kinh Văn (Biệt Giải Văn Nghĩa)


Yếu tố thứ sáu là Biệt Giải Văn Nghĩa. "Biệt" là phân biệt; "giải" là giải thích; "văn" là kinh văn; và "nghĩa" là ý nghĩa. Vậy, đây là phần giải thích ý nghĩa của kinh văn.

Quyển Thượng

Phẩm Thứ Nhất - Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi


Ðây là phẩm mở đầu của Kinh Ðịa Tạng. "Ðao Lợi" là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "tam thập tam", tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Như thế, có phải trời Ðao Lợi nằm ở tầng thứ ba mươi ba không? Không phải! Tuy gọi là cõi trời "Ba Mươi Ba", nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,... cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Vậy thì như thế nào? Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.

Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Ðế Thích. Trong Kinh A Di Ðà có nói đến "Thích Ðề Hoàn Nhân", tức là vị Ðế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam Mô Nhân Ðà La Da", thì Nhân Ðà La Da cũng chính là Thiên Chủ Ðế Thích. Ở cõi trời thì Ðế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp - Ngài chẳng những không được làm chủ mà ngay cả tòa sen để ngồi cũng không có nữa, Ngài chỉ đứng ở ngưỡng cửa mà thôi!

Thiên Chủ Ðế Thích cũng chính là đấng "Thượng Ðế Vạn Năng" mà người đời thường xưng tụng. Ðúng vậy, Ðế Thích quả là một "đấng vạn năng" - Ngài cai quản tất cả mọi việc ở cõi trời cũng như ở cõi người. Tuy nhiên, giữa Ngài và người thế gian chúng ta chẳng có gì khác biệt lắm. Vì sao? Vì Ngài vẫn còn tâm dâm dục, và vẫn cần ăn uống, ngủ nghỉ; có khác chăng là ba thứ dục vọng ấy ở Ngài thì nhẹ và tinh tế, chứ không nặng nề và thô thiển như ở phàm phu chúng ta! Người thế gian chúng ta chỉ không ăn không uống vài bữa là chịu không nổi, vài ngày không dâm dục là cảm thấy khó chịu, vài hôm không ngủ nghỉ là thấy uể oải, bạc nhược. Còn Trời Ðế Thích thì một trăm ngày không ăn cũng được; thậm chí hai trăm ngày, ba trăm ngày, hoặc một năm mới ăn một lần cũng chẳng sao; suốt năm không ngủ cũng vẫn tỉnh táo như thường, và quanh năm không dâm dục cũng chẳng lấy làm phiền - tuy nhiên, Ngài vẫn chưa đoạn trừ được dục vọng. 

Tuổi thọ của chư thiên ở cõi trời Ðao Lợi là một ngàn năm. Một trăm năm của cõi nhân gian chúng ta chỉ là một ngày một đêm ở cõi trời Ðao Lợi. Vậy, quý vị thử tính xem, so với người thế gian chúng ta thì thọ mạng của chư thiên lâu hơn được bao nhiêu năm? 

Cõi trời Ðao Lợi rộng tám vạn do-tuần; tất cả tường vách của thành trì nơi đây đều được làm bằng bảy thứ báu. Thành trì của Thiên Chủ Ðao Lợi Thiên là Thiện Kiến Thành, rộng sáu vạn do-tuần; và tất cả cung điện đều được xây bằng những vật liệu quý báu nhất. Ðây cũng là lý do khiến Thiên Chủ Ðế Thích sau khi được sanh về đó rồi thì chỉ muốn ở lại làm chúa trời, chứ không muốn "dọn nhà" đi nơi khác! Mọi thứ xung quanh Ðế Thích toàn làm bằng châu báu; ngay cả nhà cửa phòng ốc cũng được kiến tạo bằng những vật liệu vô cùng quý giá.

Vì được sống ở một nơi đẹp đẽ với những cung điện tráng lệ như thế, nên Ðế Thích khó thể dứt bỏ dục tâm. Ngài lấy làm thỏa mãn, an nhiên hưởng thụ phước trời, và cho rằng đó là nơi vui sướng nhất. Chẳng những thế, Ngài còn kêu gọi tất cả chúng sanh hãy sanh về "thiên quốc" - thế giới của Ngài. Ðối với Ngài, cõi trời Ðao Lợi là một thế giới đầy vui thú; do đó, ai thích thì cứ đến ở, Ngài sẵn lòng hoan nghênh tất cả. Ngài cho rằng Ngài rất khảng khái, rộng lượng, vì lúc nào cũng hoan hỷ nghênh đón mọi người đến ở và cùng an hưởng phước lạc của cõi trời với Ngài; song le, Ngài không biết rằng sở dĩ bản thân mình chưa thoát khỏi vòng sanh tử là bởi mình còn tham đắm dục lạc!

Vì sao Ngài được làm Thiên Chủ? Có phải là trước tiên thì làm Ðịa Chủ (chúa đất), rồi sau đó được thăng chức làm Thiên Chủ (chúa trời)? (Ở Quảng Châu, Trung Hoa, hầu như nhà nào cũng có thờ Ðịa Chủ cả.) Hay là phải từ địa vị Ðịa Chủ rồi lên Nhân Chủ (chúa nhân gian), sau đó mới từ Nhân Chủ mà thăng lên làm Thiên Chủ? Không phải! Thế thì nhờ đâu mà Ngài được làm Thiên Chủ?

Vào thời Ðức Phật Ca Diếp, vị chúa trời Ðế Thích này là một người con gái từng phát tâm xây cất ngôi tháp thờ Phật Ca Diếp. Do nhân duyên gì mà cô phát tâm như thế? Thuở ấy, nhân thấy một ngôi miếu đổ nát, mất nóc, và trong miếu có pho tượng Phật đã bị mưa gió làm loang lổ lớp vàng thếp trên mặt, cô cảm thấy rất đau lòng: "Chao ôi! Tượng Phật này đã bị nhện giăng bụi bám, bây giờ lại còn phải chịu cảnh gió táp mưa sa, tôi thật không đành lòng!". Thế là cô ta phát tâm sửa sang ngôi cổ miếu ấy lại cho trang nghiêm. Tuy nhiên, vì không có tiền, cô ta bèn tìm đến bạn bè và những người thân thuộc, nói với họ rằng: "Tôi muốn xây dựng lại ngôi cổ miếu nọ nhưng không có tiền, chẳng hay quý vị có thể giúp tôi một tay không? Quý vị ai có người thân thì kêu gọi người thân, ai có bạn bè thì kêu gọi bạn bè; chúng ta hãy hợp lực để làm một việc từ thiện, cùng nhau trùng tu ngôi cổ miếu này."

Bạn bè và bà con quyến thuộc của cô gái này đều hăng hái hưởng ứng: "Ðược, tất cả chúng ta hãy hợp tác để trùng tu ngôi cổ miếu!". Cô ta tìm được ba mươi hai người có cùng một tâm nguyện với mình, và có lẽ tất cả đều là nữ giới. (Ðiều này không thể kiểm chứng qua lịch sử, cũng chẳng thể tra cứu ở đâu được!) Cho dù có phái nam tham gia thì con số cũng rất ít; vì sao ư? Vì nam giới thường tự cho là mình tài giỏi, không thích việc xây chùa dựng tháp, lại còn bảo rằng họ nhường công việc đó cho phái nữ! 

Sau khi cô gái khởi xướng và ba mươi hai người nữ ấy hoàn tất việc trùng tu ngôi cổ miếu, họ còn cùng nhau cất thêm một bảo tháp nữa. Họ cứ kẻ góp công người góp của, ai nấy đều tùy theo khả năng của mình mà góp phần, nhờ đó việc xây dựng ngôi bảo tháp cũng được thành tựu viên mãn. Ðến khi thọ mạng của ba mươi ba người này đã hết, tất cả đều được sanh lên cõi trời. Lên trời thì mỗi người một cõi, cho nên ba mươi ba người thì có ba mươi ba cõi trời. Vị Thiên Chủ của cõi trời trung ương Ba Mươi Ba - Ðao Lợi Thiên - là Ðế Thích, tức là cô gái khởi xướng việc trùng tu ngôi cổ miếu thuở trước. Ðó là sự tích của cung trời Ðao Lợi.

"Trời" có nghĩa là gì? Không có nghĩa gì cả; bởi nếu có nghĩa thì đã không gọi là "trời"! Vì sao không có nghĩa? "Trời" lấy "tự nhiên" làm nghĩa; "tự nhiên" là ý nghĩa của "trời". Những cõi trời này là do nghiệp báo, nghiệp lực của ba mươi ba người ấy cảm ứng mà hóa hiện ra. Nếu không có ba mươi ba người ấy, thì ba mươi ba cõi trời này cũng chẳng hiện hữu; cho nên tôi nói "trời" không có ý nghĩa là vì vậy. Ước vọng được lên cõi trời là một điều không có ý nghĩa, do đó chúng ta không nên cầu mong được đến ba mươi ba cõi trời ấy. 

"Cung" tức là cung điện với lối kiến trúc nguy nga tráng lệ, vô cùng xinh đẹp. Tại Trung Quốc cũng còn một vài cung điện, song cung điện ở cõi trời thì tráng lệ và đẹp đẽ hơn, lộng lẫy không thể nói hết.

"Thần Thông". Thế nào gọi là "thần"? Thế nào gọi là "thông"? "Thần" là "thiên tâm", là tâm của trời; "thông" là "huệ tánh", tức là có trí huệ. "Thông" còn là "thông đạt vô ngại" - chẳng có gì không thông suốt; và "thần" cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn. 

Thần thông có sáu loại - sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!

Vì sao nói "vốn không có thần thông"? Vì sao lại nói "vốn cũng có thần thông"? Ðiều này rất kỳ diệu, lý thú. Bây giờ, chúng ta hãy nói về sáu loại thần thông trước, rồi sau đó sẽ bàn đến "vốn là thần thông, vốn không phải là thần thông; vốn là một loại thần thông, vốn là một loại thần thông cũng chẳng có."

Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông. 

1) Thiên Nhãn Thông. Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn quả am-ma-la trong lòng bàn tay vậy. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.

2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.

3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.

4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc - thiện cũng như ác - mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.

5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ "thần" này đồng nghĩa với chữ "thần" vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ "thần" và chữ "diệu" có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói "thần diệu khôn lường", chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn. 

"Cảnh" là cảnh giới; còn "thông" là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, "bức tường" vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng "gươm" trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay.

6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn "lậu hoặc"! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì "lậu hoặc" vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới - Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.

Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy - quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được "lậu tận thông" vậy.

Nói rằng con người "vốn không có thần thông", là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người "xưa nay vốn có thần thông", bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói "vốn không có thần thông" là vì lẽ ấy.

Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: " - , phen này tôi phát tài rồi!" Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu:

“Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng” 

(Đắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch) 

Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi - bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn.

Kinh văn:

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết Pháp.

Lược giảng:

Tôi nghe như vầy. Hiện tại (1968), chúng ta khai đàn giảng Kinh Kim Cang, Kinh Ðịa Tạng và Kinh Pháp Hoa trong cùng một thời điểm, cho nên bốn chữ "Tôi nghe như vầy" sẽ được giảng đi giảng lại đến ba lần. 

"Như vầy" hay "như thị", vốn là từ "chỉ pháp"; ngụ ý rằng pháp như vậy thì tin được, còn pháp không như vậy thì không đáng tin. Hiện tại, pháp này gọi là pháp "như thị" - đây là thứ pháp đáng tin cậy. "Như thị" cũng là từ "ấn khả", khẳng định rằng (Pháp) đích thực là như vầy, tuyệt đối không được sửa đổi. 

"Tôi nghe như vầy" chính là đáp án của Ðức Phật cho một trong bốn vấn đề mà Tôn Giả A Nan đã thỉnh vấn trước khi Phật nhập Niết Bàn. Lúc bấy giờ, sau khi hay tin Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni sắp nhập Niết Bàn, Tôn Giả A Nan khóc đến nỗi đầu váng mắt hoa, tâm trí bấn loạn, quên bẵng hết mọi việc. Trong khi đó, Tôn Giả A Na Luật, nhục nhãn tuy không còn song Thiên Nhãn rất sáng tỏ, thì lại hết sức trầm tĩnh; Ngài căn dặn Tôn Giả A Nan phải thỉnh vấn Phật về bốn việc:

- Thứ nhất, khi kết tập kinh điển, mở đầu văn kinh nên dùng chữ gì làm tiêu biểu cho tất cả kinh tạng;

- Thứ hai, khi Phật còn tại thế thì các đệ tử đều an trú cùng một nơi với Phật, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn thì họ phải sống với ai;

- Thứ ba, khi Phật còn trụ thế thì Phật là Thầy, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn thì nên tôn ai làm Thầy;

- Thứ tư, nên đối phó như thế nào với các Tỳ Kheo có tánh tình xấu ác? 

Khi ấy, Ðức Phật trả lời rằng: 

- Thứ nhất, khi kết tập kinh tạng, hãy dùng bốn chữ "Tôi nghe như vầy" (Như thị ngã văn) để mở đầu cho tất cả các bộ kinh;

- Thứ hai, hãy nương theo Tứ Niệm Xứ mà an trú. Tứ Niệm Xứ chính là Thân, Thọ, Tâm và Pháp - quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã;

- Thứ ba, khi Phật còn tại thế thì Ðức Phật là Thầy; Phật nhập Niết Bàn rồi thì lấy Ba La Ðề Mộc Xoa (Giới) làm Thầy - đây là Thầy của tất cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni;

- Thứ tư, hãy dùng phương pháp "mặc tẫn" để đối phó với các Tỳ Kheo tánh ác. "Mặc" nghĩa là làm thinh, không nói chuyện với họ; còn "tẫn" là làm lơ, không để ý đến họ nữa.

Câu "Tôi nghe như vầy" được dùng nhằm xóa tan mọi nghi vấn trong lòng đại chúng. Lúc Ðại Hội Kết Tập Kinh Tạng khai mạc, Tôn Giả A Nan không được mời tham dự. Sau đó, khi đã chứng được Tứ Quả A La Hán, vì không có ai mở cửa cho vào, Tôn Giả A Nan bèn đi xuyên qua cửa và tiến vào hội trường để tham gia Ðại Hội Kết Tập Kinh Tạng. Những người tham dự cuộc kết tập kinh tạng tuy đã chứng quả, nhưng trí nhớ của họ đều không bằng Tôn Giả A Nan. Ngài A Nan là "đại quyền thị hiện" - giấu thật hiện quyền, thị hiện thiện xảo phương tiện. Tôn Giả A Nan đã từng làm thị giả cho tất cả chư Phật xuất thế trong quá khứ, được thân cận hết thảy chư Phật. Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, Tôn Giả A Nan cũng xuất thế để làm thị giả cho Phật; và vị thị giả ấy chính là người được chuẩn bị cho công cuộc kết tập kinh tạng sau này. 

Ðương thời, lúc Tôn Giả A Nan vừa bước lên Pháp tòa, trong đại chúng lập tức dấy khởi ba mối nghi ngờ:

- Thứ nhất, họ nghi đó là Phật Thích Ca Mâu Ni sống lại, ngờ rằng Phật chưa nhập Niết Bàn. Vì khi Tôn Giả A Nan lên Pháp tòa sư tử để kết tập kinh tạng, Ngài thị hiện tướng hảo trang nghiêm, tướng mạo giống hệt Ðức Phật, chỉ thấp thua Phật ba lóng tay mà thôi, cho nên đại chúng mới ngờ rằng đó là Phật Thích Ca Mâu Ni sống lại. 

- Thứ hai, hoài nghi đó là Ðức Phật từ phương khác đến. 

- Thứ ba, hoài nghi Tôn Giả A Nan đã chứng quả, thành Phật. 

Tuy nhiên, khi Tôn Giả A Nan vừa thốt ra bốn tiếng "Tôi nghe như vầy" thì ba nỗi hoài nghi ấy liền tan biến, không còn vướng mắc trong tâm trí mọi người nữa. 

Câu "Tôi nghe như vầy" được dùng bởi bốn nguyên do: 

1) Dứt trừ mọi nghi ngờ  (Đoạn chúng nghi); 

2) Tuân theo lời dặn ḍ của Đức Phật (Tuân Phật chúc); 

3) Chấm dứt mọi tranh căi (Tức tranh luận). 

Khi kết tập kinh tạng, ngài A Nan tuổi vẫn còn rất trẻ. Một người trẻ tuổi mà đứng ra chủ trì việc kết tập kinh tạng thì e rằng những bậc Trưởng Lão như Tôn Giả Ca Diếp, Kiều Trần Như, Tu Bồ Ðề sẽ nói: "Ông còn trẻ người non dạ như thế thì đã có kinh nghiệm, kiến thức gì đâu mà đòi kết tập kinh điển?"

Nếu Ngài A Nan nói kinh điển là do chính Ngài tự viết ra thì sẽ không tránh khỏi sự tranh luận: "Những điều ông nói hoàn toàn không đúng, Ðức Phật không hề nói như vậy!" Nhưng khi Ngài A Nan tuyên bố "Tôi nghe như vầy," thì mọi người đều không tranh cãi; vì sao? Vì bốn chữ ấy ngụ ý rằng tất cả những gì Ngài A Nan sắp sửa nói ra chỉ là tuyên thuyết lại những điều mà chính Ngài đã được nghe từ kim khẩu của Ðức Phật, chứ hoàn toàn không phải do Ngài bịa đặt; nhờ thế mà chấm dứt mọi tranh luận!

4) Để khác biệt với ngoại đạo (Dị ngoại đạo):. Lư thuyết mà các Luận Sư ngoại đạo thường dùng là: "Tất cả vạn pháp của thế gian đều không ngoài hai chữ 'hữu (có), vô (không)'." 

Nếu nói "có," tức là vạn pháp đều hiện hữu; c̣n nói "không," tức là vạn pháp đều không hiện hữu. Bởi họ cho rằng hết thảy các pháp đều nằm trọn trong một chữ "có" và một chữ "không," nên kinh điển ngoại đạo dùng hai chữ "A, Hạ" làm mở đầu cho văn kinh. "A" có nghĩa là "không", và "hạ" nghĩa là "có". 

Do đó, nhằm phân biệt với ngoại đạo, Đức Phật dạy phải dùng bốn chữ "Tôi nghe như vầy" để mở đầu cho văn kinh, ư nói rằng: "Chính tôi, A Nan, từng được nghe Phật nói Pháp như thế này". 

Phàm kinh điển do Phật thuyết đều hội đủ sáu điểm để thành tựu cho toàn Kinh, gọi là Sáu Lọai Thành Tựu (Lục Chủng Thành Tựu): 

1) Tin cậy (Tín). "Như vầy" biểu thị thành tựu về tin cậy (Tín thành t ựu). 

2) Nghe (Văn). "Tôi nghe" biểu thị thành tựu về nghe (Văn thành tựu). V́ sao không nói "tai nghe" mà lại nói là "tôi nghe"? V́ "tôi" là từ tổng xưng cho một thân thể, cho nên dùng "tôi" để tiêu biểu cho cả sáu căn. 

3) Thời điểm (Thời). "Một thuở nọ" (nhất thời) biểu thị thành tựu về thời điểm (Thời thành tựu). Tại sao không nói rơ là Phật thuyết Pháp vào ngày nào, tháng nào, năm nào, mà chỉ nói chung chung là "một thuở nọ"? Bởi v́ quốc tế lịch số không đồng nhất - có khi nơi này là tháng chạp th́ nơi khác lại đang là tháng hai, ở nước nọ là tháng giêng th́ ở nước kia lại đang là tháng ba hoặc tháng tư... - cho nên trong kinh điển của Phật chỉ nói là "một thuở nọ" mà thôi. Có một thời điểm như thế này, th́ đây là thành tựu về thời điểm 

4) Chủ. "Đức Phật" biểu thị thành tựu về chủ (Chủ thành tựu). Phật thì tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bởi tam giác viên mãn, vạn đức đủ đầy, nên gọi là "Phật". "Ðức Phật" này chính là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo Chủ cõi Ta Bà. 

Thật ra, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ vô lượng kiếp về trước; nhưng vì nhận thấy chúng sanh ở cõi Ta Bà - Nam Thiệm Bộ Châu - cơ duyên đã thành thục, cho nên Ngài đến thị hiện thành Phật, hầu khiến tất cả chúng sanh cũng đều thành Phật, thoát khỏi sanh tử. Giáo pháp mà Ðức Phật thuyết giảng đều là chân thật, không hư dối, tất cả chúng sanh chúng ta cần phải trân trọng thọ lãnh. Nếu chúng ta xem những lời giáo huấn của Ðức Phật như"gió thoảng qua tai," vào tai này rồi ra tai kia, ắt sẽ không được chút lợi ích nào cả. Do đó, chúng ta cần phải thực sự áp dụng, chân chánh thực hành đúng theo giáo pháp, không được có một mảy may hư dối dù nhỏ như đường tơ kẽ tóc - nhất định phải hoàn toàn chân thật.

5) Nơi chốn (Xứ). "Cung trời Đao Lợi" biểu thị thành tựu về nơi chốn (Xứ thành tựu). 

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lên cõi trời Ðao Lợi là để độ thân mẫu. Sau khi Phật ra đời được bảy ngày, thì thân mẫu của Phật là Ma Da Phu Nhân qua đời và sau đó được sanh lên cõi trời Ðao Lợi. "Ma Da" (Maya) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "Ðại Thuật", và cũng là "Huyễn". Thánh Mẫu Ma Da từng là mẹ của ngàn đức Phật trong thời quá khứ, là đấng sanh thành của tất cả chư Phật xuất thế. 

Thánh Mẫu làm mẹ của Ðức Phật, đến khi Ðức Phật thành Phật lại đi thuyết pháp để độ Thánh Mẫu - đây có thể ví như một vở tuồng ở nhân gian chúng ta vậy. Thế gian này, nếu quý vị hiểu rõ thì sẽ thấy tất cả đều giống như một vở kịch, mà các tình tiết, các màn diễn trong đó đều nói lên chân đế của cuộc đời, một thứ chân lý của nhân sinh. Nếu thấu suốt được một chân lý này, thì quý vị cũng sẽ thông hiểu được chân lý kia. Cho nên, những kẻ không hiểu mà xem kịch thì chỉ thấy các tình tiết diễn tiến cùng những cảm xúc vui buồn tan hợp, hoặc vui mừng, đau đớn, xót xa, sợ sệt, yêu thương, ganh ghét, thù hận, mong cầu... của vở kịch. Còn người sáng suốt, từng trải thì sao? Họ biết rằng đó chỉ là một vở kịch và tất cả vốn như huyễn như hóa - đời người chẳng qua là như thế mà thôi! Kinh Kim Cang có dạy:

"Tất cả pháp hữu vi,

Như mộng huyễn, bọt nước,

Như sương mai, điện chớp,

Nên quán tưởng như vậy."

Thế nên, việc giáo hóa chúng sanh đối với Phật cũng là Du Hý Tam Muội, Phật không xem đó là điều đáng kể. Phật không như phàm phu chúng ta - chấp đông chấp tây, chấp nam chấp bắc, chấp trên chấp dưới, không thấy được tất cả đều là viên dung vô ngại. Kỳ thực, mọi cảnh giới chẳng qua đều là giả dối, không thật; nếu quý vị không có được cái nhìn như vậy, tức là còn chấp trước.



tải về 2.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương