2. Thử nghiệm sinh sản cua đồng
Bảng 1. Tỷ lệ thành thục của cua nuôi vỗ
Thời gian
Số cua mẹ kiểm tra (con)
Số cua thành thục (con)
Tỷ lệ
(%)
01/06/2010
30
18
60
25/06/2010
30
22
73,3
08/07/2010
30
16
53,3
Trung bình
62,2
Bảng 2. Tăng trưởng trung bình của cua con từ hai nguồn cua mẹ khác nhau
Nguồn cua mẹ
Khối lượng cua con (mg/con)
1 ngày tuổi
8 ngày tuổi
15 ngày tuổi
22 ngày tuổi
Nuôi vỗ trong ao
0,51
48,02
94,48
466,66
Thu ngoài tự nhiên
0,53
47,78
95,51
471,91
Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất cua con
của cua mẹ nuôi vỗ là 17,2 ± 2,6 cua con/g cua mẹ
trong khi con số này của cua tự nhiên là 18,8 ± 2,9
cua con/g cua mẹ (P > 0,05). Kết quả ương nuôi cua
con cho thấy, chúng tăng trưởng mạnh ở giai đoạn
15 - 22 ngày tuổi. Tỷ lệ sống của cua con phụ thuộc
vào môi trường, thức ăn và nơi trú ẩn. Cua đồng
là loài hung dữ hay tấn công và ăn thịt lẫn nhau
nên trong quá trình nuôi cần tạo nơi ẩn nấp cho cua
đồng bằng các ống nhựa và lưới màu đen để cua
trú ẩn (Ngô Trọng Lư, 2005). Kết quả ương nuôi
cua đồng từ hai nguồn nuôi vỗ và nguồn thu từ tự
nhiên không có sự khác biệt vào dao động lần lượt
là 43,7% và 48,2%. Tỷ lệ sống của cua thu được
trong nghiên cứu này cũng tương tự như nghiên
cứu của Lê Thị Bình (2011) trên loài S. germaini với
tỷ lệ sống dao động 44 - 53%. Các chỉ tiêu về tốc
độ sinh trưởng đặc trưng, tốc độ sinh trưởng trung
bình ngày và khối lượng sau của cua con không có
sự khác biệt giữa 2 nguồn cua mẹ nuôi vỗ và cua
thu từ tự nhiên (P > 0,05) (bảng 3). Tuy nhiên, có thể
nhận thấy một xu hướng rằng, cua con của cua mẹ
thu từ tự nhiên có các chỉ tiêu sinh trưởng cao hơn
so với cua nuôi vỗ (P > 0,05). Điều này có thể do
sự khác biệt về môi trường sống, dinh dưỡng trước
đó giữa 2 nguồn cua. Các nghiên cứu tiếp theo cần
được thực hiện để nâng cao chất lượng cua giống
từ nguồn cua nuôi vỗ nhân tạo.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |