Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2013
96
•
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NHA TRANG
lợi nhuận khá cao từ nghề nuôi cua đồng thương
phẩm. Tuy nhiên, nguồn cua giống hiện nay vẫn chủ
yếu dựa vào khai thác từ tự nhiên. Trong khi đó, quá
trình khai thác và vận chuyển gặp nhiều khó khăn
dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao, tỷ lệ sống trong quá trình
nuôi thấp, cua không thích ứng tốt với điều kiện nuôi
nhân tạo và việc khai thác cua giống phụ thuộc chặt
chẽ vào vấn đề thời tiết và mùa vụ (Trần Nguyễn
Duy Khoa và ctv., 2011).
Nếu như có rất nhiều các nghiên cứu về sinh
sản nhân tạo cua biển được thực hiện trên thế giới
cũng như ở Việt Nam (Nguyễn Trọng Nho và ctv.,
2006; Nguyễn Cơ Thạch, 2007) thì các nghiên cứu
về cua đồng còn rất hạn chế và chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu đặc điểm sinh học, phân bố và phân loại
(Thái Thanh Dương, 2003; Đặng Ngọc Thanh và ctv.,
1979). Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cua đồng mới
chỉ được thực hiện trên loài
Somanniathelphusca
germaini (Trần Nguyễn Duy Khoa và ctv., 2011 và
Lê Thị Bình, 2011) trong khi đó chưa có nghiên cứu
nào trên loài
Somaniathelphusca sisensis được
thực hiện. Vì vậy nghiên cứu một số đặc điểm sinh
học sinh sản và thử nghiệm sinh sản nhân tạo cua
đồng là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và hoàn
thiện quy trình sinh sản nhân tạo cua đồng đáp ứng
nhu cầu nuôi thương phẩm tại nhiều địa phương
trên cả nước.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: