KẾ hoạch bám sát chưƠng trình chuẩN: 15 tiếT (LỚP 11A1,4) chưƠng trình tự chọn nâng cao: 35 tiếT (LỚP 11A2) Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan



tải về 2.95 Mb.
trang6/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.95 Mb.
#18708
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Người ta Nguyễn Du đã giêt Mác Giám SInh bằng một chữ tót

Từ trắng trong từ điển là tính từ chỉ một thứ màu, màu trắng. Nhưng khi nó xuất hiện trong bài thơ Viếng hồn trinh nữ của Nguyễn Bính thì mang nét nghĩa khác:

Một chiếc xe tang màu trắng đục

Hai con ngựa trắng quấn song song

Mang đi một chiếc quan tài trắng

Với những vòng hoa trắng lạnh người

Theo vết chân nàng khăn áo trắng

Khóc hồn trinh trắng Máci không nguôi.

Nghĩa đen thì vẫn là trắng đấy nhưng nghĩa nghệ thuật là sự tring trắng và việ lặp đi lặp lại nhiều lần từ trắng để mô tả đám tangcủa người con gái làm tăng thêm nỗi đau xót. Cái chết của con người đã là đau xót, nhưng cái chết của người con gái tring trắng nữa thì đau xót biết chừng nào. Cũng với cách lặp từ trắng trong bài thơ Cát trắng của Nguyễn Duy có khác:



Bên ni cửa Tùng mênh mông cát trắng

Bên tê cửa Tùng cát trắng mêng mông

Cát trắng bên ni sao trắng lạnh, trắng lùng

Trắng đất, trắng tay, trắng một vùng đất trắng.

Trắng ở đây không có liên quan gì với nét nghĩa trinh trắng ở bài thơ trên cả. Trắng ở đây phục vụcho một tư tưởng - thẩm mĩ khác: sự trắng trơn- sạch bách của đất quê hương dưới gót giày giặc.

 

    III. HÌNH TƯỢNG ÐIỂN HÌNH

TOP

Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nói hình tượng là nói đến đặc trưng của văn chương nhưng chưa nói tới chất lượng của hình tượng đó. Tác phẩm nào cũng có tính hình tượng, vì đó là kết quả tất yếu của sự phản ánh có tính đặc thù của văn học. Nhưng không phải tác phẩm nào hình tượng văn chương cũng đạt được một chất lượng ngang nhau. Ðiển hình nghệ thuật là một khái niệm dùng để chỉ chất lượng của hình tượng.

Ðặc điểm cơ bản của hình tượng văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái quát. Và vì điển hình là khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên một hình tượng văn chương có tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc đáo thì hình tượng trong đó trở thành điển hình.

Chẳng hạn, trong hàng loạt nhân vật của Tắt đèn thì hình tượng chị Dậu là điển hình. Ðiển hình văn học là hình tượng được khái quát một cách sinh động nhất, sâu sắc nhất, tính qui luật của con người, sự vật vả hiện tượng đời sống xã hội.

 

        *. Ðặc điểm cơ bản của hình tượng điển hình



a. Tính cách điển hình

Tính cách là những đặc điểm tâm lí tương đối ổn định nói lên cốt cách và phẩm chất của nhân vật. Vì tính cách là cốt cách, phẩm chất của nhân vật cho nên tính cách còn dùng để chỉ nhân vật.

Tính cách điển hình là tính cách có sự thống nhất sâu sắc giữa tính chung và tính riêng (tức là giữa cái khái quát và cái cụ thể).

Về mặt tính riêng (yêu cầu của tính riêng điển hình).

-    Sự phong phú đa dạng của tính cách.

C. Mác nói: Bản chất con người là tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Tính cách mà con người điển hình phải phong phú, đa dạng như chính những quan hệ đa dạng của nó trong cuộc sống.

Kiều được Nguyễn Du mô tả trong rất nhiều mối quan hệ với gia đình và ngoài xã hội, với rất nhiều kiểu người khác nhau.

-    Tính xác định của tính cách tức là tính cá biệt, tính có một không hai, tính duy nhất của điển hình.

Cuộc sống của con người là đa tạp nhưng hoàn toàn cụ thể, xác định. Do đó nghệ thuật cũng phản ánh cho được tính xác định đó.

Tính xác định của điển hình được biểu hiện tập trung ở cá tính. Cá tính của nhân vật là những đặc trưng tương đối ổn định, nổi bật nhất, dễ thấy nhất, lắp đi lắp lại nhiều lần nhất như một cái khuôn, khuôn mọi biểu hiện của tính cách vào một số hình thái nhất định.

Aêngghen viết: Tính cách nhân vật không những biểu hiện ở chỗ nó làm gì mà còn ở chỗ nó làm như thế nào.[1] Chính làm như thế nào của tính cách là cá tính của nó.

Ví dụ: cùng là ghen cả nhưng cái ghen của hoạn thư hoàn toàn khác cái ghen của phụ nữ bình thường. Ðó là cái ghen biểu thị tính giảo quyệt của mụ.

Lưu ý tính riêng của điển hình không phải là một nét, một khía cạnh, hoặc từng nét từng khía cạnh mà là sự tổng hợp những nét, những khía cạnh cụ thể, những cái xác định. vì những nét riêng lẻ không thể tiêu biểu cho bản chất thẩm mĩ của hình tượng; hình tượng nghệ thuật phải là sự tổng hợp hữu cơ của những đặc tính riêng muôn hình muôn vẻ cái cụ thể sở dĩ nó cụ thể vì là nó kết hợp của vô số những xác định, là sự thống nhất của cái nhiều vẻ.

Muốn thể hiện nhân vật trong tính cá thể, xác định thì phải cá thể hóa - biện pháp cơ bản, tất yếu của việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, nhằm làm cho hình tượng nghệ thuật trở nên  cụ thể, cá biệt, cảm tính và đầy sức sống.

Về mặt tính chung

Tính chung của tính cách là những đặc trưng có ý nghĩa khái quát, phổ biến của tính cách. Ðó là những đặc trưng quyết định phương hướng hành động hay bản chất xã hội của hành động nhân vật.

Chị Dậu trong Tắt đèn là một phụ nữ rất mực yêu chồng, thương con, phẩm chất này (tính chung) đã quyết định những hành động hy sinh của chị.

Yêu cầu của tính chung là tính khái quát rộng rãi. Mỗi tính cách điển hình phải tiêu biểu cho một tằng lớp người, một giai cấp nhất định, và là sự biểu hiện cho quy luật, cho mặt bản chất của đời sống xã hội.

Tính giai cấp là mặt chủ yếu, là đặc điễm quan trọng nhất của tính chung.

Trong xã hội có giai cấp, con người là thành viên của một giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp có tác dụng và ý nghĩa quyết định đến toàn bộ đời sống từng cá nhân. Mỗi con người xã hội từng đặc điểm riêng, nó còn mang những đặc điểm chung của giai cấp nhất định. Chị Dậu điển hình cho giai cấp nông dân lao động. Paven vlaxốp, Paven cortsaghin điển hình cho giai cấp công nhân. Ðặc điểm của tính cách giai cấp của điển hình được thể hiện cụ thể hơn các đặc điểm của tầng lớp, bộ phận cấu tạo nên giai cấp. Vì trong quá trình đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp được hình thành và cấu tạo nên từ những tầng lớp người khác nhau. Chí Phèo điển hình cho bộ phận nông dân - cố nông bị lưu manh hóa.

Tính giai cấp của con người trong xã hội là không đơn thuần mà phức tạp. Vì: bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Mỗi con người mang bản sắc giai cấp xuất thân đã đành, nó còn mang bản chất của các giai cấp khác. Do đó, trong văn chương, mỗi nhân vật thường có tình trạng mang theo bản sắc nhiều giai cấp. AQ ngoài bản tính nông dân ra, y còn mang bản tính giai cấp khác. Ví như tư tưởng tiểu tư sản.

Ngoài tính giai cấp ra, tính chung của tính cách còn được biểu hiện ở đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, dân tộc thời đại … vì mỗi con người, tuy là những cá nhân nhưng là thuộc một giới nhất định của xã hội, có cùng nghề nghiệp nhất định và nảy sinh phát triển trong điều kiện của một dân tộc và ở một thời đại cụ thể. Chính đặc trưng giới tính nghề nghiệp, dân tộc, thời đại góp phần làm xác định tính chung của điển hình. Về giới tính: chị dậu điển hình cho phụ nữ nông dân Việt Nam trong thời đại chưa có ánh sáng cách mạng rọi tới. Chị Út Tịch điển hình cho phụ nữ Việt Nam trong thời đại có Ðảng v.v…

Lưu ý: Nói đến đặc trưng tính chung của điển hình chính là xác định bản chất của điển hình. Mà nội dung trọng yếu của nó là bản chất giai cấp. Tính chung của điển hình vì vậy có một nội dung giai cấp rõ ràng chứ không phải tính chung của điển hình là tính người chung chung siêu giai cấp.

Còn hiện tượng một số nét, đặc điểm thuộc bản chất cố hữu giai cấp này, nhưng tìm thấy biểu hiện ở một số cá nhân thuộc giai tầng khác (ví dụ: lénine đã khẳng định về nhân vật Ôblômốp của Gontrasốp là không phải tính người chung chung. Mà là (như đã nói) bản chất giai cấp con người là không thuần khiết mà pha tạp. Muốn cho cá tính có tính khái quát rộng rãi thì người nghệ sĩ không thể chụp ảnh cuộc sống mà phải dùng đến phép "khái quát hóa" - Biện pháp xây dựng hình tượng trong đó nhà văn làm cho hình ảnh biểu tượng cụ thể, cá biệt mang ý nghĩa chung phổ biến và có khả năng phản ánh được thực chất của mọi hiện tượng mọi quá trình nào đó của hiện thực như nhà văn quan niệm. Tchenychevrki: "Nhà văn phải tẩy rữa tính hạn chế của sự vật bằng cách tập trung nhấn mạnh, nghĩa là phải tiến hành khái quát hóa".

- Khái quát hóa là biện pháp cơ bản, tất yếu để làm cho nhân vật trở nên điển hình.

Flaubert: "Bao giờ cũng phải xây dựng nhân vật của mình đến mức điển hình tối đa. Ðiểm nổi bật ở các bậc thiên tài lỗi lạc là ở chỗ biết khái quát và sáng tạo, từ toàn bộ những đặc tính của nhiều nhân vật, các bậc thiên tài ấy đã xây dựng thành một nhân vật điển hình".

Ý nghĩa, giá trị của tính chung là tạo nên giá trị nhận thức rộng rãi, tác dụng mạnh mẽ sâu sắc. Vì, mỗi một nhân vật có tính chung rộng rãi, sâu sắc thì nó như là tấm gương soi, mọi người đều soi thấy bóng dáng mình, nhìn nhận được sự ưu nhược của mình qua tấm gương để người ta sửa chữa. Chẳng hạn giai thoại về AQ trong AQ chính truyện mà Lỗ Tấn đã nêu trong Gào thét.

Tương quan giữa tính riêng và tính chung của tính cách:

Tính cách điển hình là sự thống nhất giữa 2 đặc tính chung và tính cá biệt. Tương quan giữa tính chung và tính riêng trong điển hình là tính tương quan giữa cái chung và cái riêng.

Biélinski: "Ðiển hình ở trong nghệ thuật cũng chẳng khác gì loại và dạng ở trong tự nhiên, chẳng khác gì một anh hùng ở trong lịch sử. Ðiển hình là sự thống nhất của sự liên kết hữu cơ giữa 2 cực - cái chung và cái đặc biệt".

Thể hiện cho bằng được mối liên kết hữu cơ này là yêu cầu có tính chất bắt buộc cho việc xây dựng hình tượng. Biélinski: "Cần phải làm cho nhân vật vừa làm những biểu hiện của cả một thế giới gồm nhiều người, lại vừa là một người, một chính thể, một cá biệt. Chỉ với điều kiện đó, chỉ có thông qua sự điều hòa giữa các mặt đối lập ấy với nhau, thì nhân vật đó mới có thể là một người điển hình". Engels rất hài lòng về ưu điểm điển hình hóa trong tiểu thuyết "những người cũ và những người mới của Minna Kautski: "Tôi biết bà đã thể hiện nổi bật những cá tính của nhân vật, đó là biệt tài bà thường tỏ ra về phương diện này; mỗi cá tính là một điển hình, nhưng đồng thời là một cá nhân riêng biệt, tức là "con người này" - như ông già Hégel đã nói - và hẳn phải như thế."[1] Mối quan hệ xuyên thắm hữu cơ của tính chung và tính riêng trong điển hình là yêu cầu tất yếu. Vì, nghệ thuật yêu cầu nhận thức cuộc sống trong tính sinh động cảm tính của nó. Bản thân cuộc sống - đối tượng của nhận thức nghệ thuật là cái hiện tượng và cái bản chất không tách rời nhau. Nhận thức nghệ thuật không thuần túy lôgich mà còn là tư duy hình tượng: không chia nhỏ đối tượng, không đi từ cá biệt đến trừu tượng mà là một quá trình bao quát đối tượng trong sự thống nhất giữa nội dung bản chất và hình thức ngay từ đầu.



b. Hoàn cảnh điển hình.  

TOP

            Hoàn cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, là phạm vi hiện thực khách quan tác động đến quá trình hoạt động của nhân vật. Con người tồn tại và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Môi trường này chính là hoàn cảnh của con người. Môi trường hoạt động chủ yếu của con người là môi trường xã hội. Cho nên, nội dung cơ bản của hoàn cảnh : quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ xã hội là quan hệ giai cấp.

Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm, vừa có tính chất tiêu biểu và độc đáo, thể hiện được những tương quan bản chất của đời sống trong những mối liên hệ phát triển biện chứng của chúng với nhau.

Không có người nào là không tồn tại trong một hoàn cảnh. Hoàn cảnh, vì vậy, là việc làm tất yếu để từ đó nhà văn tạo nên tính cách trong quá trình phản ánh. Nhưng phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép những cảnh ngộ tầm thường mà sự phân tích, phát hiện, thể hiện nội dung chủ yếu, mâu thuẫn cơ bản của những tương quan xã hội.

Yêu cầu của hoàn cảnh điển hình:

Trước hết, hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh thể hiện được những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, những tương quan bản chất của đời sống xã hội, những vấn đề cơ bản bức thiết của thời đại. Engels nhấn mạnh đặc trưng này qua việc nhận xét vở kịch "Franz von sickingen" của Lassalle:



"Các nhân vật thì thực sự đại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định, do đó tiêu biểu cho những tư tưởng nhất định của thời đại họ, và động cơ hành động của họ không phải là những ham thích vụn vặt cá nhân, mà là cái trào lưu lịch sử lôi cuốn họ."[1]

Hoàn cảnh điển hình không phải là môi trường, bối cảnh đơn thuần, mà là "trào lưu lịch sử" - hoàn cảnh thể hiện được tương quan bản chất của xã hội.

Trong thực tế, không phải bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng thể hiện được đặc trưng quan trọng này của hoàn cảnh điển hình. Engel phê phán Cô gái thành thị của Harkness là không điển hình về hoàn cảnh :

"Các tính cách của cô khá điển hình trong những giới hạn trong đó những tính cách ấy hành động, nhưng về các hoàn cảnh bao quanh họ bắt họ hành động thì người ta có thể nói là không được điển hình đầy đủ."[1]

Những sáng tác Tự lực văn đoàn trong văn chương Việt Nam 30 - 45 không xây dựng được một hoàn cảnh điển hình nào. Trong lúc đó Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao lại xây dựng được những hoàn cảnh điển hình: thể hiện được mâu thuẫn của thời đại một cách sâu sắc - mâu thuẫn giữa nông dân lao động với địa chủ phong kiến, thực dân.

Hoàn cảnh điển hình thể hiện bản chất, quy luật cuộc sống do đó nó không chấp nhận lối miêu tả bên lề cuộc sống (kiểu Tự lực văn đoàn) lối tô hồng hiện thực (kiểu văn học lãng mạn).

            Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh đang vận động và phát triển theo quy luật phát triển của xã hội. Vì : bản thân cuộc sống đối tượng của văn chương là vận động phát triển không ngừng. Yêu cầu của nghệ thuật là biểu hiện cuộc sống trong tính sinh động của nó cho nên hoàn cảnh không thể là một bức ảnh chụp, một khung cảnh tĩnh, một hoàn cảnh ngưng đọng hay đứng im. Muốn vậy, nghệ sĩ phải có quan điểm biện chứng, phát triển để nắm bắt hết quy luật vận động của đời sống.

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực phê phán thường là không phát triển  (Như Chí Phèo trong Chí Phèo). Hoàn cảnh trong văn học lãng mạn tuy có phát triển nhưng bị lí tưởng hóatheo thiện ý chủ quan của nghệ sĩ (Như Giăng Văngiăng trong Những người khốn khổ…)

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển (Như Nilốpna, Paven Vlaxốp trong  Người mẹ…)



c. Quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh

TOP

Quan hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau: tính cách được nảy sinh trong một hoàn cảnh nhất định, hoàn cảnh thúc đẩy tính cách phát triển. Là con đẻ của hoàn cảnh, tích cách có tác dụng thúc đẩy hoàn cảnh. Tuy nhiên quan hệ này trong thực tiễn sáng tác không phảimọi phương pháp nghệ thuật đều thể hiện được một chất lượng ngang nhau. Chỉ có đến chủ nghĩa hiện thực mới thể hiện được mối quan hệ này với chất lượng mới.

Engels đã vạch ra đặc trưng, yêu cầu này cho chủ nghĩa hiện thực : "Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi sự tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình".



Hoàn cảnh thúc đẩy tính cách. Hoàn cảnh xác định tính cách:

"Tính cách của con người do các hoàn cảnh tạo nên". Sự phong phú của tâm hồn, tư tưởng của con người tùy thuộc ở sự phong phú của những quan hệ thực tế của con người. Tính cách của chị Dậu hoàn toàn do những quan hệ thực tế của chị với môi trường xung quanh mà có.

Hoàn cảnh vận động và phát triển bắt buộc tính cách vận động và phát triển theo. Cuộc sống không đứng im, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối. Vì bị đèn nén đến cực độ (hoàn cảnh thúc ép) chị Dậu vùng lên đánh lại người nhà Lí trưởng. Và khi "vùng lên" tính cách chị Dậu đã thay đổi.

Tính cách tác động trở lại hoàn cảnh:

Con người là con đẻ của hoàn cảnh, nhưng nó không phải là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Trong quá trình phát triển, con người ngày càng làm chủ tự nhiên và xã hội, và trở thành chủ thể lịch sử. Con người tạo nên lịch sử. Như thế chính con người tạo nên hoàn cảnh. Văn chương phản ánh đời sống con người không phải chủ yếu là phản ánh cái hoàn cảnh như một lực lượng siêu nhiên đẻ ra những con người, mà phải thể hiện hoàn cảnh do con người tạo nên đó. Engels : " hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh".

Truyện Vợ chồng A Phủ: từ cuộc sống tối tăm dưới ách bọn chúa đất, những người nông dân sống như trâu ngựa, được ánh sáng cách mạng soi đường đã vùng lên giải phóng quê hương, làm chủ cuộc sống.

Tóm lại : Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình là 2 đặc điểm cơ bản nhất của hình tượng điển hình, chúng làm cho hình tượng điển hình luôn luôn có tính chân thực cao, chúng là thước đo tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Chính trên ý nghĩa ấy mà Biélinski viết: "Tính cách điển hình là huy chương của nhà văn, là một trong những dấu hiệu nổi bật nhất của sức sáng tạo nghệ thuật và là dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tác".







CHƯƠNG VII:

 

VĂN CHƯƠNG, NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ

   

 


  1. NGÔN TỪ, CHẤT LIỆU CỦA VĂN CHƯƠNG

    1. Ngôn từ, chất liệu duy nhất để xây dựng hình tượng của văn chương

    2. Phân biệt ngôn ngữ và ngôn từ

    3. Khả năng nghệ thuật của ngôn từ

  2. ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT CỦA NGÔN TỪ

    1. Tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ.

    2. Không gian và thời gian trong hình tượng văn chương

    3. Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư duy của hình tượng văn chương

    4. Tính vạn năng và tính phổ thông của văn chương

  3. VĂN CHƯƠNG VỚI CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT KHÁC

    1. Vị trí của văn chương trong các loại nghệ thuật

    2. Quan hệ giữa văn chương và các nghệ thuật

 

 

    I. NGÔN TỪ, CHẤT LIỆU CỦA VĂN CHƯƠNG

        1. Ngôn từ, chất liệu duy nhất để xây dựng hình tượng của văn chương

Tất cả các loại hình nghệ thuật, kể cả văn chương, đều thống nhất ở một điểm cơ bản là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nhưng sở dĩ các loại hình nghệ thuật đều song song tồn tại, và dường như là để bổ sung cho nhau là vì đặc trưng hình tượng của các loạt hình nghệ thuật đó khác nhau trên nhiều điểm cơ bản. Chẳng hạn, hình tượng của nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc là có tính chất tĩnh và chiếm một khoảng không gian nhất định; hình tượng của nghệ thuật âm nhạc, điện ảnh… có tính chất động và diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định v.v… Vậy, cái gì đã khiến cho hình tượng các loại hình nghệ thuật có đặc điểm riêng biệt đó? Lí do trên hết và trước hết chính là ở đặc trưng của chất liệu xây dựng nên hình tượng nghệ thuật của chúng. Chất liệu màu sắc, đường nét của hội họa khác hẳn chất lượng âm thanh của âm nhạc, hình khối của điêu khắc. Chất liệu ngôn từ của hình tượng văn chương khác xa với màu sắc, âm thanh, đường nét, hình khối của các nghệ thuật kia. Từ cơ sở chất liệu xây dựng hình tượng này mà người ta đã tiến hành mô tả, dựng lại bức tranh về các hình tượng của thế giới nghệ thuật như sau:

 


 

Nghệ thuật biểu hiện

Nghệ thuật tạo hình

Nghệ thuật tĩnh

 

 



Nghệ thuật động

 

 



Nghệ thuật ngôn từ

 

Nghệ thuật tổng hợp



Kiến trúc

Hoa văn


 

Vũ đạo


Âm nhạc

 

Trữ tình



 

Ba lê, Ô pêra

Ðiện ảnh


Ðiêu khắc

Hội họa


Nhiếp ảnh

 

 



 

Tự sự, kịch

 

Sân khấu



 

 


 

Ðiều đáng lưu ý trong bức tranh này là văn chương được xếp ở một vị trí đặc biệt: nó vừa mang tính chất của nghệ thuật tĩnh, không gian, lại vừa mang tính chất nghệ thuật động, thời gian; vừa là nghệ thuật biểu hiện, lại vừa có mặt trong nghệ thuật tạo hình; lại nữa, nó như là cầu nối giữa nghệ thuật tổng hợp với các nghệ thuật riêng rẽ.

            Chính ngôn từ, chất liệu cấu tạo nên các hình tượng văn chương đã qui định tính độc đáo và đặc biệt đó của văn chương. Vì vậy, để tìm hiểu về văn chương nghệ thuật, không thể không tìm hiểu đặc trưng bản chất liệu đã tạo nên hình tượng văn chương.

 


        2. Phân biệt ngôn ngữ và ngôn từ

TOP

            Cần thiết phải phân biệt khái niệm ngôn ngữ với ngôn từ để đi tới nắm bắt đặc trưng chất liệu xây dựng hình tượng văn chương dễ dàng hơn. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, một sản phẩm tập thể được ra đời trong quá trình lao động sản xuất xã hội. Nó cũng là hệ thống ký hiệu tồn tại trong ý thức của những người cùng một dân tộc. Ngôn ngữ ra đời đồng thời với tư duy và chức năng quan trọng của nó là giao tế - giao lưu giữa người này với người kia. Ngôn ngữ là nguồn dự trữ các từ và nguyên tắc kết hợp - ngữ pháp, là một pho tự điển chung cho mọi người, mỗi cá nhân không thể sáng tạo ra ngôn ngữ. Còn lời nói là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong hành động, là bản thân quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa người và người cụ thể, nảy sinh trong một hoàn cảnh cụ thể và bao giờ cũng biểu đạt những tư tưởng nhất định, mang màu sắc tình cảm và khuynh hướng tư tưởng nhất định. Lời bao gồm lời nói và lời viết, đồng nghĩa với hoạt động ngôn từ.

Như vậy, không phải ngôn ngữ là chất liệu xây dựng hình tượng văn chương mà là ngôn từ - lời được sử dụng với tất cả phẩm chất và khả năng thẩm mĩ của nó. Ngôn ngữ là tổng thể các yếu tố của phương tiện giao tiếp là cơ sở của ngôn từ. Chỉ có ngôn từ - yếu tố vật chất mang tính hình tượng mà cơ sở là câu - cái có khả năng phản ánh các yếu tố của hiện thực trong một tương quan nhất định mới là chất liệu văn chương.

 

        3. Khả năng nghệ thuật của ngôn từ

TOP

Tính độc đáo của các loại hình nghệ thuật là do tính chất của chất liệu đã cấu tạo nên hình tượng nghệ thuật của chúng. Tức là các loại nghệ sĩ đã tìm thấy cho mình khả năng nghệ thuật ở trong từng loại chất liệu nhất định, cũng có nghĩa là các loại hình nghệ thuật tồn tại dựa trên cơ sở khả năng nghệ thuật của chất liệu. Vậy khả năng nghệ thuật của chất liệu cấu tạo hình tượng văn chương là như thế nào?

Nếu nghệ thuật, tính hình tượng là thuộc tính của chúng thì nghệ sĩ ngôn từ đã có một lợi thế là tính hình tượng văn chương đã có cơ sở ngay từ trong chất liệu. Ngôn từ mang tính hình tượng tự trong bản chất của nó. Bởi vì, ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và ý thức không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được. Các từ câu của lời nói là hình ảnh của hiện thực. Ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tế trên 3 phương diện: định danh (lời nói gọi tên các sự vật - chức năng định danh), biểu ý (lời nói trao đổi ý kiến với nhau) biểu cảm (lời nói biểu hiện và truyền đạt tình cảm). Như vậy lời nói gợi lên các sự vật, đưa con người thâm nhập vào thế giới của ấn tượng, cảm xúc.

Khi tín hiệu ngôn ngữ tác động đến thị giác hay thính giác của con người, thì lập tức bằng thói quen và kinh nghiệm, các sự vật được gợi đến hiện lên trong đầu óc chúng ta. Sự vật, hiện tượng nào chúng ta tiếp xúc nhiều thì hiện lên càng rõ. Chính vì vậy mà ngôn ngữ tuy là vỏ vật chất nhưng có khả năng biểu đạt được một cách hình tượng cuộc sống xã hội cùng những cảm xúc, suy tư, thái độ của con người trước cuộc sống. Âm thanh trong âm nhạc, màu sắc trong hội họa, gỗ đá trong điêu khắc, trước hết chúng chỉ là vật vô tri, vô giác của tự nhiên, có sẳn trong tự nhiên. Trong lúc đó, ngôn ngữ là của cải của xã hội, nó không vô tri mà bất cứ đơn vị nào cũng là yếu tố của tư tưởng. Vì vậy mà rất thường khi trong tác phẩm văn chương ta bắt gặp những câu như là những lời nói bình thường với những từ chỉ có nghĩa đen - gợi lên sự vật bình thường nhưng nó vẫn mang tính hình tượng. Chỉ bởi các từ đó đã gợi ra các sự vật. Có người thắc mắc rằng, ví dụ, câu sau đây trong một cuốn tiểu thuyết nọ thì nghệ thuật ở đâu:


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 2.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương