KẾ hoạch bám sát chưƠng trình chuẩN: 15 tiếT (LỚP 11A1,4) chưƠng trình tự chọn nâng cao: 35 tiếT (LỚP 11A2) Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan


Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "



tải về 2.95 Mb.
trang33/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.95 Mb.
#18708
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33

3. Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "

a. Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị

Theo ý Xuân Diệu: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễî là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó". Xuân Diệu viết tiếp:"Nếu ai đọc cứ quen theo thị hiếu thông thường, thích lời thơ phải hoa mỹ như cô gái đeo nhiều nữ trang, thích vị thơ phải chua cay, ngọt...thì người ấy sẽ thấy thơ này bình thường quá. Phải ở trong cái không khí cao sáng của trí tuệ này, phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới nhận hết được cái chất thơ cao quý này. Người xưa nói:" Ðối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau". Ðọc Nhật ký trong tù cũng phải tế nhị như vậy. Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc của Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường...

Nếu nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngòi bút của một phóng viên ghi nhanh và sắc. Các nét dù là nhỏ nhất trong đời thường cũng không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong một ngày:

"Sớm dậy người người đua bắt rận "

"Hai giờ ngục mở thông hơi"

"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm"

Ðến cảnh đun nấu, mỗi người tù tự tìm cách cải thiện: "Hỏa lò ai cũng có riêng nồi"

Từ những lệ tục hủ lậu:

"Lệ thường tù mới đến

Phải nằm cạnh cầu tiêu"

(Quá trưa)

Ðến những thói ăn người trắn trợn.

"Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao"

(Cấm hút thuốc lá)

Gặp những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ thiên về "vĩ đại", "cao siêu" thì sẽ bỏ đi hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký thì chùm thơ cũng mất đi cái đặc tính của nó, cái hương vị của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ khác.



b. Nghệ thuật trào phúng

Nhật ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng lúc thì đau đớn lúc thì chua xót "cái cùm" và sự đới nhiều khi đến kỳ lạ:

"Ðược cùm chân mới yên bề ngủ

Không được cùm chân biết ngủ đâu"

Có khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài "cờ bạc" mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh

"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai"

Ðột nhiên ngòi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát mẻ:

"Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sau trước không vô quách chốn này"

Bác bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt hỏi tội bọn chúng:

"Phạm tội cái gì ? ta thử hỏi

Tội trung với nước, với dân à ?"

Giọng thơ trào phúng không đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của ý thơ. Mỗi bài thơ mỗi vẻ. Có bài đanh thép như một cái tát vào mặt quân thù như bài kể chuyện "Nộp tiền đèn" có bài lời thơ tựa hồ dửng dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận như bài "Ở Lai Tân". Có bài xót xa chua chát:

"Biền biệt anh đi không trở lại

Buồng the, trơ trọi, thiếp ôm sầu

Quan trên sót nỗi em cô quạnh

Nên lại mời em tạm ở tù"

(Gia quyến người bị bắt lính)

Có bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở "Ði Nam Ninh ", "Dây trói", mỗi bài là một tiếng cười như để lấy thêm sức mạnh.

Tóm lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ trong Nhật ký trong tù đã nêu lên được nỗi cơ cực của người tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân loại của Tưởng Giới Thạch.

c. Nghệ thuật triết lý

Nghệ thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như bài "Nửa đêm"

"Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền

Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên"

Hay bài "Nghe tiếng giã gạo", bài "Học đánh cờ". Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống, hay sự nhìn nhận đúng, hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu ra.

Chúng ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà Cách mạng vĩ đại. Thơ Bác không phải biểu hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ đạo cuộc sống. Ðó là tính Ðảng cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép của thời đại.

Nói đến thơ Bác không thể không nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là thơ của tâm hồn, thơ của tình cảm, thơ của tư tưởng, thơ của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu phương tiện biểu hiện thật hết sức phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng như trái ngược nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là sự bình dị tuyệt vời không có ai có thể bắt chước được.

Trong những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao cả, Bác có thể nói đến những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày mà ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ được bên cạnh câu thơ mang ý nghĩa lớn:

"Ðau khổ chi bằng mất tự do"

Lại một câu khác :

"Ðến buồn đi ỉa cũng không cho "

Thế mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn ác, làm cho việc mất tự do, cái tự do tối thiểu của con người cũng không có, càng được nhấn mạnh.

Bác không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào không dùng miễn là từ ấy dùng đúng chỗ, dùng đắt. Bác đem rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ mà những từ ấy không làm cho thơ Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của Bác càng sinh động, càng thực, càng xúc động lòng người.

Bác không từ chối cách nói từ ẩn dụ. tùì cứng" Ngày ngày no rượu thịt"

Tù mềm "Nước mắt bọt mồm tuôn"

Lối chơi chữ của Bác trong bài "Ðêm ngủ ở Long tuyền"

"Ðôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân

Ðêm "gà năm vị lại thường ăn"

"Ðôi ngựa" hai chân đi; "Gà năm vị" khi ngủ hai chân phải bắt chéo lại như chéo chân gà trong mâm cỗ tiệc.

Hay là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách nói trực tiếp, cách nói hiện thực: rất thực, rất thẳng, rất sâu

Trong thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và trữ tình, lãng mạng và hiện thực, cổ động và giáo dục, phản ánh và triết lý... đã kết hợp với nhau một cách chặt chẽ một cách nghệ thuật.

Trong Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối lập, tạo nên một sự châm biếm có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.

"Ta thì người dắt, lợn người khiên"

"Uốn để pha trà đừng rửa mặt"

"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội"

"Trong tù đánh bạc được công khai"

Sự đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc thơ Bác chúng ta luôn luôn gặp một nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một nụ cười riêng của Bác.

Chúng ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị tuyệt diệu đó bắt nguồn từ con người của Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà không tầm thường, giản dị mà không đơn giản. Bác nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối lập của nó, nhìn hiện tại mà hướng về tương lai, coi trọng tư tưởng mà rất chú trọng đến nghệ thuật.



V. KẾT LUẬN:

Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà tính dân tộc. "một tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phầm chất đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay".(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật ký trong tù của Viện văn học ). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ , những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta có cái may mắn được nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế tấm gương đạo đức cao cả của Người đối với ta vô cùng gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ của Hoàng Trung Thông trong bài "đọc thơ Bác"

"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp

Anh đèn tỏa rạng mái đầu xanh

Vần thơ của Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình "




4- Phong cách chính luận :

TOP

a- Khái niệm:

PC chính luận là PC được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp ở PC này thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội. Ðây là khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống và việc phân giới giữa PC này với PC khoa học, PC thông tấn vẫn còn một số quan niệm chưa thống nhất. [4], [8],[14],[15]. 



b- Chức năng và đặc trưng :

1- Chức năng : PC chính luận có ba chức năng: thông báo, tác động và chứng minh. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy PC chính luận có sự thể hiện đặc trưng và đặc điểm ngôn ngữ có nét giống với PC thông tấn, PC khoa học và cả PC văn chương.

2- Ðặc trưng: PC chính luận có ba đặc trưng:

2.1- Tính bình giá công khai: Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối với sự kiện. Ðây là đặc trưng khu biệt PC chính luận với PC khoa học và PC văn chương. Nếu văn chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì ngôn ngữ của PC chính luận bao giờ cũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó.

  2.2- Tính lập luận chặt chẽ: Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở PC này đòi hỏi có tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ sở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức ngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưá đựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt. 

2.3- Tính truyền cảm: PC chính luận cóï tính truyền cảm mạnh mẽ , tức sự diễn đạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằng tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa PC chính luận với PC khoa học, thông tấn và khiến PC này gần với PC văn chương. Trong văn bản chính luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa. 



c- Ðặc điểm :

1- Ngữ âm: Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trong mit tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe. 

2- Từ ngữ:- Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, công cụ riêng của PC chính luận. PC chính luận đòi hỏi khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm và tình cảm cách mạng của mình. Ví dụ:

Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc đảo chính? Ðảo chính là hai bọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ mới, nhưng căn bản chế độ cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phóng giành chính quyền, sao gọi là đảo chính? (TC) 

- Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở PC chính luận là những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người ta phải dùng tất cả các lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.

- Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các vấn đề nêu ra, người ta coön chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi vì đây là lớp từ giàu sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm. Ví dụ:

Ai nói mà không làm, ai chỉ nghị quyết suông, ai theo đuôi quần chúng, ai ỳ ra như xe bò lên dốc, ai nhút nhát như bị quân thù bắt mất hồn, ai không dám hi sinh việc nhà cho việc Ðảng, phải kíp sửa đổi mà tiến lên (T.Tr) [15,157] 

3- Cú pháp:

-Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong cách chính luận dùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán.

- Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác định chặt chẽ.

- Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, PC chính luận sử dụng nhiều lối nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản để tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán xét. Ví dụ:

- Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. (Hồ Chí Minh)



- Ðổi mới là con đường duy nhất đúng đắn của Ðảng ta, của nhân dân ta, để vượt qua mọi khó khăn to lớn, đi đến ổn định và phát triển. Ðổi mới tạo nên thế mới và sức lực mới, như muà xuân làm bật dậy sức sinh sôi huyền diệu của thiên nhiên, đúng theo quy luật của sự phát triển. (Báo Nhân dân) 





Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 2.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương