KẾ hoạch bám sát chưƠng trình chuẩN: 15 tiếT (LỚP 11A1,4) chưƠng trình tự chọn nâng cao: 35 tiếT (LỚP 11A2) Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan



tải về 2.95 Mb.
trang29/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.95 Mb.
#18708
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33

2.2.2 - Thời kì kháng chiến chống Pháp

Xuân Diệu hăng hái tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó với cuộc sống nhân dân. Càng ngày ông càng hiểu hơn về những con người giản dị mà vĩ đại. Đó chính là điều kiện thuận lợi giúp ông có được vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tạo để viết nên các tập thơ: Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954).

Cảm hứng chủ đạo ở các tập thơ trên là niềm tin yêu, niềm lạc quan trước hiện thực đời sống cách mạng. Ông cảm nhận cuộc đời như :

Một sớm mai hồng, một bình minh

Xanh mắt trẻ con,

Hồng môi thiếu nữ.

( Trở về)

Cuộc đời hiện tại dù còn bao gian truân thử thách nhưng đối với nhà thơ “Bà mẹ đời du dương tay mở rộng” và Hương đời luôn thấm đượm. Nhà thơ cho rằng:



Đời đáng yêu – nhiều lúc có gì đâu…

Như đôi lứa mình lặng lẽ nhìn nhau…

Một cái nắm tay, một đầu thuốc dở,

Một tiếng vang trong một mái đầu.

(Hương đời)

Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc cuộc sống cao đẹp của quần chúng và cảm thông với nỗi khổ đau của họ. Hình ảnh quần chúng lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Xuân Diệu chính là một nét mới về đối tượng phản ảnh, nó đánh dấu cho bước chuyển quan trọng về tình cảm nhận thức trên con đường thơ của ông (Tặng làng Còng, Bà cụ mù lòa…). Trên cơ sở đó, nhà thơ đã viết nên nhiều vần thơ giản dị mà thấm nặng nghĩa tình:



Hạt cơm ăn của bà con

Là tình, là nghĩa, là ơn thấm nhuần.

( Tặng làng Còng)

Vẻ đẹp của hình ảnh của bà mẹ nghèo trong kháng chiến đã được nhà thơ thể hiện sinh động qua nhiều bài thơ và rõ nét nhất là tình yêu thương của mẹ. Cũng vì thế, khi giã từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội nhà thơ không thể nào quên được hình ảnh của mẹ vào những tháng năm đó:



Mẹ nghèo vẫn cố nuôi con:

Khi bùi măng nứa, khi ngon củ mài.

Sẻ từng hạt muối cắn đôi

Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.

(Ta chào Việt Bắc, về xuôi)

Bên cạnh đó, Xuân Diệu cũng bày tỏ được một cách chân thành nỗi trăn trở và sự kính yêu của mình khi viết về Bác. Ông đã tìm được cách thể hiện riêng và rất thấm thía:



Trên đầu tóc Bác sương ghi

Chắc đôi sợi bạc đã vì chúng con.

( Sáng)

Dù còn có hạn chế song các tập thơ trên đã thể hiện được bao nỗi niềm, tình cảm của Xuân Diệu trước hiện thực đời sống cách mạng. Thơ Xuân Diệu thời kì này đánh dấu một bước chuyển biến lớn về tư tưởng, tình cảm, giọng điệu… , trên con đường thơ của ông.



2.2.3 - Thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ

- Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hiện thực sôi động đó, với sự nhạy cảm, lòng tin yêu cuộc đời mới, thơ Xuân Diệu có sự vươn lên mạnh mẽ, đề cập đến nhiều vấn đề trong cuộc đời mới, biểu hiện rõ ở ba tập thơ: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay (1962), Khối hồng (1964).

Xuân Diệu say sưa ngợi ca cuộc đời mới với những đổi thay mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống của dân tộc, và rồi ông trăn trở nghĩ về mình, bày tỏ chân thành niềm vui hạnh phúc qua nhiều bài thơ như : Ngói mới, Lệ, Chào Hạ Long... Ông nguyện nhìn đời bằng Đôi mắt xanh non, bởi vì, ở khắp mọi nơi, từ các làng quê vùng đồng bằng đến vùng núi Mã Pí-Lèng, hay hải đảo Chòm Cô Tô mười bảy đảo xanh, cuộc sống bao giờ cũng “xanh non”, và“mãi mãi tươi dòn”. Với Xuân Diệu, cuộc sống giờ đây chính là những trang đời đẹp nhất, “những trang tốt lành”, để rồi ông khao khát :

Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh,

Có lẽ lòng tôi cũng hóa thành

Ngói mới.

(Ngói mới)

Không chỉ vui say mà nhà thơ còn tự hào khi đã qua rồi nỗi đau tê tái, “vị buồn ghê mặn chát”, “mực mài nước mắt gửi người thương”, “vũ trụ tưởng tàn, thế gian tưởng hết”…, và giờ đây hạnh phúc đến với mọi người. Vì lẽ đó, ở bài thơ Lệ nhà thơ có được cách nhìn, cách nghĩ rất thấm thía về quá khứ và hiện tại:



Xưa lệ ta sa oán hận đất trời,

Nay lệ òa, ta lại thấy đời tươi!

- Giọt nước mắt ta

Chan chứa tình người.

Trong cảnh đất nước chia cắt ông Nhớ quê Nam, với “vườn xoài trưa nắng”, “gió biển Quy Nhơn”, “mảnh vườn Sa Đéc, con kênh Tháp Mười”, nhớ “bà má Năm Căn bỏm bẻm nhai trầu”, nhớ “trăng lam Đèo Cả, mây hồng Hải Vân”; nhớ điệu bổng trầm “… qua nhớ thương em bậu”, nhớ sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Hương, và Gửi sông Hiền Lương bao nghĩa tình sâu nặng :



Gửi ngàn mến với muôn thương trong ấy

Gửi lời về xin bớt nhớ, khoan thương

Gửi kiên trinh một tấm lòng vàng.

Càng đến với cuộc sống, tình đất nước, tình người trong thơ Xuân Diệu càng đằm thắm thiết tha, càng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc.

Khi cả nước có chiến tranh, Xuân Diệu nhanh chóng hòa nhịp với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, ông không ngại khó khăn gian khổ đến với nhiều vùng đất nóng bỏng, ác liệt nhất với tâm nguyện :

Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao.

(Những đêm hành quân)

Rất dễ nhận thấy, thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của Xuân Diệu xuất hiện đều đặn trên báo chí vàcó khả năng ứng chiến nhạy bén trước những sự kiện của đời sống kháng chiến. Điều đó được phản ánh rõ nét qua ba tập thơ: Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976).

Hơn lúc nào hết, nhà thơ nhận thức rõ hơn về sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam trong chiến tranh. Ông khẳng định Sự sống chẳng bao giờ chán nản, và “chúng ta yêu sự sống bền dai, vĩnh viễn, bao la!”.

Xuân Diệu có ý thức mở rộng thi đề để phản ảnh mọi mặt của đời sống. Có những cảnh như : Các cháu đi sơ tán, hay cảnh Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng đi vào hỏa tuyến đã gợi lên cho người đọc biết bao niềm xúc động mạnh mẽ.

Nét mới của thơ Xuân Diệu ở thời kì này là vừa giàu chất trữ tình vừa chứa đựng tính triết lý biểu hiện rõ trong bài Quả sấu non trên cao Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Mặt khác, thơ ông còn có thêm chất trào phúng (Con chim và xác chiếc tàu bay Mĩ) .

2.2.4 - Từ sau 1975 đến khi qua đời

Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Xuân Diệu viết về Miền Nam quê ngoại, lòng dạt dào vui sướng khi Đi giữa Sài Gòn trong ngày chiến thắng và ông bồi hồi nhớ về quê ngoại sau bao năm xa cách.

Ông có khát vọng: Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam, Nghe nhạc Nam để “thức mãi cùng thương nhớ”, đến Phan Thiết “thăm kinh đô cá mắm”, hay Tâm sự với Quy Nhơn sau hơn ba mươi năm trở lại với quê ngọai, nơi chan chứa kỉ niệm của tuổi thơ và tự hào hơn về vẻ đẹp của miền đất này:

Ôi! Biển Quy Nhơn, biển đậm đà

Thuyền đi rẽ sóng, sóng viền hoa.

Cảm ơn quê má muôn yêu dấu

Vẫn ấp iu hoài tuổi nhỏ ta.

Nhiều vần thơ của ông ở thời kì này thể hiện sự đằm thắm nghĩa tình đối với miền Nam. Có thể nói: “Viết về miền Nam là Xuân Diệu đã khơi dậy những tình cảm, những kỉ niệm sâu sắc của mình, những hình ảnh được chắt lọc qua nhiều năm tháng để chỉ còn lại những gì thực sự là máu thịt, là rung động cho thơ”( Mã Giang Lân ).



2.2.5 - Thơ tình của Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám

Với thơ tình, Xuân Diệu đã đạt được những thành công rất đặc sắc. Ở mảng thơ này bản lĩnh nghệ thuật của Xuân Diệu bộc lộ rõ nét nhất.

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ tình Xuân Diệu giãi bày niềm khao khát được ban phát tình yêu, hiến dâng, vồ vập nhưng rồi như Nước đổ lá khoai, và kết cục rơi vào bi kịch của một trái tim hiến dâng nhầm chỗ. Còn sau Cách mạng tháng Tám, thơ tình của ông có được một nguồn mạch mới, đó là tình yêu bền chặt, gắn bó không thể gì chia cắt nổi bời tình yêu của lứa đôi bao giờ cũng nồng nàn, đến “ngàn năm không thỏa”. Dù “anh không xứng là biển xanh / nhưng anh muốn em làm bờ cát trắng” để có thể :

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi.

( Biển )

Còn nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của tình yêu được nhà thơ cảm nhận :



Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình của ta

( Uống xong lại khát)

Xuân Diệu cảm nhận sự xa cách của tình yêu “một khắc là thế kỉ”. Bởi vậy, càng yêu nhau họ càng mong muốn gần nhau, gắn bó với nhau để rồi hiểu nhau hơn. Họ khao khát mãi bên nhau để san sẻ cả niềm vui hạnh phúc, cũng như nỗi buồn. Nhà thơ cảm nhận cho rằng :



Vai anh khi để đầu em tựa

Cân cả buồn vui của một đời

(Tình yêu san sẻ)

Ông cũng nói đến nỗi đau trong tình yêu, nỗi đau đó nhức nhối vò xé tấm lòng ho, nó là Cái dằm, là“vết thương trong cõi tinh thần” của lứa đôi. Nhưng nỗi đau rồi sẽ qua đi, họ nhanh chóng “ làm lành” với nhau vì “ em là nhân của hồn anh”. Có thể nào anh lại thiếu vắng em giữa cuộc đời, khi anh hiểu rằng :



Mang em trong dạ như mầm

Ngày đi suy nghĩ đêm nằm nhớ thương

( Quả trứng và lòng đỏ)

Tình yêu trong thơ Xuân Diệu càng trở nên cao đẹp hơn khi lứa đôi hiểu rõ giữa họ với cuộc đời có mối quan hệ thắm thiết. Hạnh phúc lứa đôi gắn liền với hạnh phúc của dân tộc, nhà thơ cho rằng:



Của đời ta nhận ấm êm

Hồn trao âu yếm ta thêm tặng đời

( Tình yêu muốn hóa vô biên).

Khác với trước Cách mạng tháng Tám, giờ đây tình yêu ít có nỗi buồn mà thấm đượm niềm vui. Tình yêu đã làm trỗi dậy niềm vui, giúp lứa đôi “cởi hết ưu phiền gửi gió mây”, và khi đó giọng nói của em dù chỉ là “giọng nói thường” nhưng “anh vẫn nghe hay tựa tiếng đàn”, vẫn ngập tràn hạnh phúc trong cảnh :



Em cười ríu rít ở sau xe

Em nói lòng anh mãi lắng nghe

Thỉnh thoảng tiếng cừi em lại điểm

Đời vui khi được có em kề.

( Giọng nói )

Ngoài ra, thơ tình Xuân Diệu thời kì này bên cạnh tình yêu còn có thêm tình vợ chồng. Tuy viết về tình vợ chồng nhưng vẫn quyện hòa, chan chứa tình yêu, vẫn là thơ tình yêu. Điều này biểu hiện rõ qua các bài thơ như : Anh thương em khi ngủ, Đứa con của tình yêu, Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng vào hỏa tuyến, Dấu nằm, Đứng chờ em,...

Có thể nói, đến với thơ tình của Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhận thấy: tóc Xuân Diệu dù đã hoa râm nhưng ông vẫn giữ được chất thanh xuân của tâm hồn để cùng tuổi trẻ nói chuyện tri âm, chuyện tình yêu, hẹn thề, nói chuyện say đắm … Bởi thế, nhà thơ Trần Lê Văn đã viết :

Bởi quá yêu đời nên nặng lòng ấp ủ



Bởi không muốn già, nên bền chí thanh xuân”

( Dây đàn bỗng đứt).

Mảng thơ tình của Xuân Diệu, chính là món quà tặng người đời mãi mãi, như ở bài thơ Đề tặng ông đã viết :



Tặng lòng con trai

Tặng lòng con gái

Tặng hoa tặng trời

Tặng tình mãi mãi

……….



Tặng hương - tặng Đời”.

 


3 – Xuân Diệu với văn xuôi, tiểu luận, phê bình :  

Top

(Sinh viên đọc tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo viên).

Cần lưu ý các điểm sau :

- Sự quan tâm của Xuân Diệu đối với các nhà thơ lớp kế cận và lớp trẻ. Không ít nhà thơ trẻ đã đạt được sự thành công trong sáng tạo phần nào có sự giúp đỡ, quan tâm của Xuân Diệu.

- Xuân Diệu giới thiệu thơ quần chúng. Ông chịu khó tìm kiếm, chắt lọc cái hay, cái đẹp trong những sáng tác của họ để giới thiệu một cách trân trọng.

- Xuân Diệu khám phá, phát hiện cái hay, cái đẹp trong thơ của các nhà thơ hiện đại ưu tú như : Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên …

- Giới thiệu thành tựu của các nhà thơ lớn trong thơ ca dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương …

- Xuân Diệu dịch và giới thiệu một số nhà thơ lớn ở nước ngoài đối với người đọc Việt Nam và đồng thời giới thiệu một số bài thơ Việt Nam tiêu biểu sang các nước khác.



4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu:




Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống. Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống. Thơ ông bám lấy thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi tiết hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn phong phú.

Xuân Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương diện (cách xây dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ … ). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung bình ở mỗi tập thơ của ông.

Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững trong thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở ban đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đã tạo cho thơ ông thêm giàu hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với nhận thức của người đọc.

Thơ Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài dòng trong nhạc điệu, từ ngữ . Điều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.  



5 – Kết luận chung :  




Xuân Diệu là một nhà thơ cần mẫn,sung sức trong sáng tạo nghệ thuật và đã có những cống hiến to lớn cho văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị đặc sắc, mà đặc sắc nhất là thơ tình yêu nam nữ.

Nghĩ về Xuân Diệu là chúng ta nghĩ về một tài năng, một tấm gương lao động nghệ thuật giàu sức sáng tạo, xứng đáng để các nghệ sĩ noi theo.

*

* *  


HƯỚNG DẪN HỌC TẬP  

Câu hỏi ôn tập:

1 - Vì sao nói Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong phong trào Thơ mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”?

2 - Anh, chị có cảm nhận gì về khả năng nhạy bén của tâm hồn thơ Xuân Diệu trước hiện thực cuộc sống từ sau Cách mạng tháng Tám?

3 - Xuân Diệu có những đóng góp gì ở phương diện phê bình thơ ?

4 - Những yếu tố cơ bản nào giúp Xuân Diệu luôn có được sức sáng tạo mãnh liệt?

Đề tài nghiên cứu và hội thảo:

1 - Sự giống nhau, khác nhau của thơ tình Xuân Diệu trước và sau Cách mạng tháng Tám.

2 - So sánh thơ Xuân Diệu với thơ Tố Hữu và Chế Lan Viên khi viết về miền Nam, về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3 - Biểu hiện của đặc điểm phong cách nghệ thuật Xuân Diệu qua các bài thơ được chọn giảng trong chương trình phổ thông trung học.

4 - Những đóng góp của Xuân Diệu ở phương diện sử dụng ngôn ngữ thơ.

5 - Quan niệm thơ của Xuân Diệu.

Chương 3

NGUYỄN TUÂN  


  1. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT  

  2. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC :  

  3. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT :  

  4. KẾT LUẬN :  



NGUYỄN TUÂN

(1910 - 1987)

----------------------

Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,

vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.

(Vũ Ngọc Phan) 

Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. "Ông là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. 



I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

1) Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có truyền thống nho học. Nhưng lúc này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi thời trước xã hội giao thời Tây - Tàu nhố nhăng ; sinh ra tư tưởng bất đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của Nguyễn Tuân). Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng.

- Năm 1929, bị đuổi học và không được vào làm việc ở bất cứ công sở nào trên toàn cõi Ðông Dương (vì tham gia bãi khóa chống giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam, tại trường trung học Nam Ðịnh). Cùng một nhóm bạn, vượt biên giới sang Lào; bị bắt ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh Hóa. Hơn một năm sau, ra tù. Ði trái phép vào Sài Gòn, đến Vinh thì bị bắt và bị quản thúc ở Thanh Hóa. Kể từ đây, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "đại bất đắc chí", như một người "hư hỏng hoàn toàn".

- Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng Kông.

- Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp ; đã có ý định tự sát. 

* Cách mạng tháng Tám đã cứu sống cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn Tuân. Ông hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng.

- Năm 1950, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

- Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc. 

* Nguyễn Tuân mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội. 

2) Nguyễn Tuân là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học, đặc biệt, có lòng say mê thiết tha đối với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú tâm gìn giữ nhân cách nghệ sĩ, nên Nguyễn Tuân căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa.

Ðọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh,... Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. 

3) Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".

- Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên "lộn tùng phèo" mọi thứ quan niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía dân tộc và truyền thống dũng cảm chống lại sức công phá của lối sống xu thời. Sáng tác của ông thời kỳ này dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các giá trị văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và xã hội. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài đối với dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được một tấm lòng chân thành và rất mực thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví trang sách như tấm lá chắn hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn trước 1945 - chính là người cảm tử quân đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ ở thành trì Chân - Thiện - Mỹ.

- Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lòng đón nhận bao nhiêu thanh sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trước kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ đây con người tài hoa uyên bác ấy như được tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường, cất cao lời ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.

Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm màu sắc chủ quan, "không bà con gì với luân lý thời đại" thì giờ đây, đã có sự hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.

II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC :

* Tác phẩm tiêu biểu :

- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945).

- Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994). 

1) Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian thử bút ở một số thể loại trước khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút.

- Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông, cho đến trước năm 1937, hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu như "Giang hồ hành" (thơ), "Vườn xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn) những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa ; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc ; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.

- Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.

- Nguyễn Tuân chỉ thực sự công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ tùy bút - du ký "Một chuyến đi", năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim "Cánh đồng ma" - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Nét đặc sắc nhất ở "Một chuyến đi" chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo : "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái "tôi" sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.

- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đã vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng ; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. "Vang bóng một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

- Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngõ cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi" vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái "tôi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này. 

* Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời" trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất. 

2) Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn Tuân còn có "Chùa Ðàn" - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác của nhà văn thì không thể không công nhận "Chùa Ðàn" là một cố gắng đáng trân trọng.

- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950) - ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu gọi của Ðảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây không phải mất công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực đang từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh choáng say sưa trước niềm hạnh phúc vô biên ấy. Ông vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy : "Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa thủ đô", "Tìm hiểu Sê Khốp",...



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 2.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   25   26   27   28   29   30   31   32   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương