KẾ hoạch bám sát chưƠng trình chuẩN: 15 tiếT (LỚP 11A1,4) chưƠng trình tự chọn nâng cao: 35 tiếT (LỚP 11A2) Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan


Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy



tải về 2.95 Mb.
trang26/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.95 Mb.
#18708
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   33

2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:

 

Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hương , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.



 

Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì. Có danh nhưng không thực. Mặc dù:



Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai

Cũng gọi ông Nghè có kém ai

 

Nhưng ông lại tiếc rẻ:



Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ

Cái giá khoa danh thế mới hời

 

Ấy thế còn ra dáng đường bệ:



Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi

 

Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nước mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.



 

Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ siõ bị đánh mất trước tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu:



Ở góa thế gian nào mấy mụ

Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy

Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy

Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

 


3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương:

TOP

3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:

 

Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.



 

- Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu … được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.

 

- Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.



 

- Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nước.

 

Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng  qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.



 

3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:

3.2.1 Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:

 

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:



 

Lão làm ái táo, miên tương khởi,

Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì

(Hạ nhật tân tình)

 

Dịch nghĩa:



Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,

Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra.

(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)

 

Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.



Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua.

Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa

(Chốn quê)

 

Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết được mùa được ông ghi nhận:



 

 

Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng



Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt

 

Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:



Dở trời mưa bụi còn hơn rét,

Nếm rượu tượng đình được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xao xác,

Nợ nần năm trước hỏi lung tung.

(Chợ đồng)

 

3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:

 

Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.



 

-         Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.

-          

Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.

Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm

 

- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:



 

Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,

Tố nghiệp thư tha nhất thúc thư.

 Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,

Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.

(Xuân nhật thị chư nhi (I) )

 

Dịch nghĩa:



Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,

Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách

Các con nối chí cha nên biết

Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà

(Ngày xuân dặn các con (I) )

 

- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn...  Bài nào cũng chân tình giản dị.



- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:

 

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,



Tôi lại đau trước bác vài ngày.

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!

Ai chả biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mãi lên tiên?

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua, không phải không tiền, không mua

(Khóc Dương Khuê)

 

III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:



1. Ngôn ngữ:

TOP

1.1.           Ðặc điểm chung:

 

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.



 

Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe…



Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

(Thu ẩm)

 

Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ được dùng ở nông thôn được ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài.



 

Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để lý giải vì sao như vậy:



Trời dẫu yêu nhưng vì có phận

Vợ mà vụng dại đếch ăn ai.

Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ?

Vợ chỉ hơn trời có cái chai!

 

Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỷ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.



 

Ca dao có câu Gái có chồng như gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy chồng phát triển cái tứ ngược lại:



Mới biết có chồng như có cánh

Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

 

1.2. Ngôn ngữ trào phúng:

 

Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương là đánh một cái cho biết. Cái cười của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhưng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nữ:



Ba vuông phất phới cờ bay dọc

Một bức tung hoành váy xắn ngang

(Lấy Tây)

 

Ông có biệt tài, cường điệu và chơi chữ rất tài tình:



Văn hay chữ tốt ra tuồng

Văn dai như chão chữ vuông như hòm

Vẽ thầy như vẽ con tôm

Vẽ tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương.

(Ðùa chế ông Ðồ Cự Lộc)

 

Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm người hàng thịt:



Tứ thời bát tiết canh chung thủy

Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

 

Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết… đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.



 

1.2.           Ngôn ngữ tả cảnh:

 

Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.



 

Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ thường lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao.

 

Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.



 

2. Hình ảnh:

TOP

 

Hình ảnh sử dụng thường đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe… đầy sức sống.

 

Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Ðường.



 

Aâm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả được đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý:



Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách

Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà

(Vịnh lụt)

 

Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tượng thị giác.



 

Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thường thành thơ. 

 

IV.KẾT LUẬN:

Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên những nụ cười nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn.

 

Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt



Chương 2

NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU

(1822-1888) 

*** 

  1. GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

    1. Cuộc đời

    2. Sự nghiệp văn chương:

  2. NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU:

    1. Tác phẩm Luc Vân Tiên:

    2. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu:

  3. KẾT LUẬN:

Chương 2


NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU

(1822-1888) 

I.GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

1.Cuộc đời: 

TOP

Nguyễn Ðình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tượng trưng cho lòng yêu nước của nhân dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.(*)

 

Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.



 

Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hải hùng đã tác động đến nhận thức của ông.

 

Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ước, công danh dang dở. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng gắn bó với nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhưng Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến thân thành danh bằng con đường hành đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm lo lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng một lúc ba nhiệm vụ của ba người tri thức để cứu dân, giúp đời.



 

Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực phi thường và khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Ðình Chiểu mới vượt qua những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh lửa hãi hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí. Nguyễn Ðình Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gương sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

 

2.Sự nghiệp văn chương:

TOP

2.1.Quá trình sáng tác:

 

Văn chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là nhà giáo, người thầy thuốc và là một nhà tư tưởng. Nhưng văn chương của ông đồ sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.



 

Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành hai thời kỳ sáng tác:

 

-Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tay, có tính chất tự truyện.



 

-Pháp xâm lược Nam Kỳ:

 

+ Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm được viết trước khi Pháp xâm lược cũng có ý kiến ngược lại, mục đích của tác giả là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này được sửa lại cho phù hợp với tình hình.



 

+ Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phương thuốc và nghề làm thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.

 

+ Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa xác định thời điểm sáng tác.



 

Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều lần tìm cách mua chuộc ông nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).

 

Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.



 

2.2.Quan điểm văn chương:

 

Nguyễn Ðình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm văn dĩ tải đạo của ông khác với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm Ðạo là đạo của trời, còn Ðồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:



 

Ðạo trời nào phải ở đâu xa

Gẫm ở lòng người mới thấy ra

 

Trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Ðó là quan niệm bao trùm văn chương Ðồ Chiểu.



 

Quan điểm văn chương Ðồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.

 

II.NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU:

1.Tác phẩm Luc Vân Tiên:

TOP

 

1.1.Tóm tắt cốt truyện:

Ðây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt truyện được tóm tắt như sau:

-Lục Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186)

-Lục Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và được cứu giúp (Câu 187-1264)

-Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664)

-Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng (câu 1665-2082)

 

1.2. Lục Vân Tiên thể hiện Ðạo làm người trong cuộc đời thường:

1.Ðạo đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên

 

Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Ðình Chiểu bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho Theo đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.



 

Viết tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên những tấm gương về luân lý, đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm mục đích giáo huấn, cải tạo xã hội:



Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

 

Quan niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật (Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu Ðồng…) dễ làm ta nghĩ đến những quan niệm phong kiến Nam nữ thụ thụ bất thân, về lòng trung thành, về chữ trung, chữ tiết phong kiến.



 

Nhưng trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu đã nhào nặn lại tư tưởng của đạo nho, đã tiếp thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa nhưng không còn theo lý thuyết nho giáo gò bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà được khúc xạ đến mức khó nhận ra.

 

Các nhân vật không thấy mình bị gò bó bởi một nguyên lý đạo đức nào. Vân Tiên nghe theo lệnh vua đi chống giặc Ô Qua là để cứu dân. Ðó là hành động trung quân hay ái quốc cũng được. Tư tưởng trung quân của Nguyễn Ðình Chiểu là trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải, trung với nước. Nhưng đối với những ông vua xấu, vua ác thì ông phê phán:



 

Quán rằng: ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm.

Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

Ghét đời Ngũ bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời Thúc quý phân băng,

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…

 

Hành động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái độ phản kháng đối với chữ trung.



Nghĩa tình nặng cả hai bên.

Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.

 

Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo được đề cao. Nhưng có được một quan niệm đạo đức như thế rõ ràng là tiến bộ. Như vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung , hiếu tiết, hạnh nhưng không phải hoàn toàn thuộc quan niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.



 

Ðứng trên lập trường nhân dân, ông ca ngợi những người hành động vì nhân nghĩa và họ xem đó là một nhu cầu mà không hề nghĩ đến lợi danh, không cần báo đáp.

 

-Ðó là những người rất hào hiệp, nghĩa khí Giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu đột đánh cướp cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ giò con quan tri huyện để cứu người bị ức hiếp thế cô.



 

-Họ còn là những người tốt, giàu lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người khác không nghĩ đến thân, quên mình vì nghĩa. Ông Ngư hết lòng chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:

 

Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.

Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn

Nước trong rửa ruột sạch trơn

Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.

 

Tất cả việc làm vì nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm Lục Vân Tiên đều thể hiện được một quan điểm nhất quán của Ðồ Chiểu về cuộc sống, cũng như về đạo đức.



 

Ðể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê phán cái phi nghĩa. Các nhân vật trong tác phẩm được sắp xếp thành hai tuyến nhân vật rất rõ. Một bên là những con người chính nghĩa và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa như gia đình họ Võ ăn ở hai lòng, như Trịnh Hâm tính tình đố kỵ nhỏ nhen; như Bùi Kiệm dâm ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép, bối toán nhiễu đời, hại dân cùng với những tên sâu dân mọt nước như tên Vua Sở, tên Thái Sư trong truyện. Tất cả những nhân vật phản diện này đều tiêu biểu cho cái xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng trị thích đáng.

 

Cách xử lý của tác giả rất gần với quan niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Ðó cũng chính là đạo lý, là ước mơ của nhân dân.



 


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 2.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương