Chương 5: Định tuyến
115
chọn đường đi tốt nhất trên mạng là không tối ưu (ví dụ, một con đường 3 hop qua 3 mạng
Ethernet vẫn tốt hơn con đường 2 hop nhưng phải qua 2 kết nôi không dây hay vệ tinh).
Trong một mạng RIP, mỗi router sẽ broadcast toàn bộ bảng định tuyến của nó đến các
router
láng giềng cứ mỗi 30 giây. Mỗi thông tin cập nhật định tuyến thường gồm hai phần: địa chi
mạng và khoảng cách để đến được mạng này. Khi một router nhận được thông tin định
tuyến từ các láng giềng, nó sẽ dùng các thông tin này để cập nhật bảng định tuyến của nó và
gửi tiếp bản định tuyến đã cập nhật này đến các router láng giềng của nó. Thủ tục này sẽ
được lặp lại bởi mỗi router và mạng sẽ tiến đến trạng thái hội tụ khi tất cả router đều thấy
toàn bộ topo mạng.
RIP sử dụng cơ chế định thời (timer) để loại bỏ các thông tin cũ trong bảng định
tuyến. Khi router thêm một thông tin định tuyến mới vào bảng định tuyến của minh, nó sẽ
bật timer cho thông tin này. Khi nó nhận được thông tin định tuyến mới cập nhật thông tin
định tuyến này, timer sẽ được tính lại. Nếu sau một khoảng thời gian (180s) mà thông tin
này không được cập nhật thì nó bị loại bỏ.
5.2.2. Giao thức định tuyến cổng nội IGRP
IGRP (Interior Gateway Routing Protocol) cùng là giao thức định tuyến
vector
khoảng cách. IGRP sử dụng metric tổng hợp là băng thông và độ trễ để xác định con đường
tốt nhất giữa hai vùng. Người quản ừị có thể sử dụng các thông số khác như MTU
(Maximum Transmission Unit), độ tin cậy hoặc tải của liến kết. Tương tự như RIP, IGRP
cũng gửi toàn bộ bảng định tuyến và cập nhật chủng trong những khoảng thời gian đều đặn
nhưng không phải là 30 giây mà là 90 giây. Ngoài ra, IGRP còn hỗ trợ cập nhật nhanh (flash
update) để ỉàm tăng thời gian hội tụ của mạng.
5.2.3. Giao thức định tuyến nội cao cấp EIGRP
EIGRP (Enhanced Interior Gateway Routing Protocol) là một giao thức định tuyến nội
dạng vector khoảng cách nhưng có cải tiến. Tương tự như IGRP, EIGRP cũng sử dụng metric
là băng thông, độ trễ, MTU, độ tin cậy và tải của liên kết. Trong mạng EIGRP, mỗi router chi
gửi thông tin phải cập nhật thêm về bảng định tuyến của nó cho router láng giềng mỗi khi có
thay đổi xảy ra. Chính vi vậy mà EIGRP hội tụ nhanh và tiêu tốn ít băng thông.
Khi router
nhận được thông tin cập nhật bảng định tuyến, nó sẽ dùng thông tin này với thuật giải DUAL
để tìm ra tuyến tốt nhất và tốt thứ hai, cập nhật bảng định tuyến của chinh nó và tiếp tục gửi
thông tin này cho các router kế cận. Cứ như vậy cho đến khi mạng đạt ứạng thái hội tụ.
EIGRP hỗ trợ định tuyến IP, IPX và Appletalk. Cùng với IS-IS, EIGRP là một trong
nhừng giao thức định tuyến đa giao thức. Nó dùng thuật toán DUAL (Diffusing
Update
Algorithm), luôn luôn chuẩn bị sẵn một tuyến dự phòng trong trường hợp tuyến chính bị
down. DUAL cũng giới hạn bao nhiêu router sẽ bị ảnh hường khi mà một thay đổi trên
mạng xảy ra.
EIGRP không có giới hạn cho số hop tối đa. Trong một mạng EIGRP, mỗi rọuter sẽ
multicast các gói tin hello để phát hiện ra các láng giềng kế cận. Cơ sở dữ liệu về sự kế cận
này sẽ được chia sẻ với các router khác để xây dựng nên một cơ sở dữ liệu topo mạng. Dựa
vào đây, router sẽ tìm ra tuyến tốt nhất và tuyến tốt thứ hai.
EIGRP là dạng không phân lớp (classless), tức là nó không kèm mặt nạ mạng con
trong các bảng cập nhật định tuyên. Metric của EIGRP có thể được tính toán phức tạp theo
116
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
nhiều yếu tổ nhưng theo mặc định, nó chỉ dùng băng thông và độ trễ để xác định con đường
tốt nhất.
5.2.4.
Giao thức đường đi ngắn nhất đầu tiên mở OSPF
OSPF (Open Shortest Path Fứst) là giao thức định tuyến trạng thái liên kết hoạt động
trong một hệ tự trị để tìm ra đường đi ngắn nhất đầu tiên (Shortest Path First). OSPF đảp
ứng được nhu cầu cho các mạng lớn, có thời gian hội tụ ngắn, hỗ trợ mặt nạ mạng con có
chiều dài thay đổi (VLSM), kích thước mạng thích hợp cho tất cả các mạng từ vừa đến lớn,
sử dụng băng thông hiệu quả, chỉ multicast sự cập nhật mỗi khi mạng thay đổi, chọn đường
dựa trên chi phí thấp nhất. Trong khi RIP sừ dụng topo mạng phẳng nên chi một thay đổi
của một router sẽ ảnh hường đến toàn bộ các thiết bị trong mạng, OSPF dùng một khái niệm
vùng (area) để phân đoạn một mạng thành các nhóm router nhỏ hơn. Bằng cách thu hẹp
mức truyền thông trong một vùng, OSPF có thể hạn chế việc truyền thông ứong miền và
ngăn các thay đổi trong một vùng có thể làm ảnh hưởng đến hiệu suất của các vùng khác.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: