I s s É nhà xuất bản t h ỏn g tin và truyền thông chuyển mạch nhãN



tải về 7.1 Mb.
Chế độ xem pdf
trang10/121
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2024
Kích7.1 Mb.
#57338
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   121
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
RSP1Adatasheetv1.9
CHƯƠNG 2 ỉ LÝ THUYẾT c ơ BẢN CỦA 
CHUYỂN MẠCH NHÃN
2.1. TÒNG QUAN
Khi mạng Internet ngày càng mở rộng cùng với sự phát triển của các dịch vụ gia tăng 
cũng như các yêu cầu về chất lượng dịch vụ và tính bảo mật, MPLS là một giải pháp tối ưu. 
Nó kết hợp các ưu điểm của IP và ATM mà chi phí triển khai cũng không quá đắt, cỏ thể 
phổi hợp và nâng cấp từ các mạng ATM hoặc Frame Relay đã có sẵn. Ngoài ra, MPLS còn 
là một giải pháp tối ưu cho dịch vụ VPN và các ứng dụng đòi hỏi về chất lượng dịch vụ và 
kỹ thuật lưu lượng.
Hầu hết các mạng diện rộng ở Việt Nam đều được tổ chức với kết nối sừ dụng dịch 
vụ thuê kênh riêng, X25 hoặc Frame Relay thông qua các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. 
Hầu hết chúng đều hoạt động dựa trên định tuyến IP truyền thống với không ít nhược điểm, 
đáp ứng chậm khi cỏ yêu cầu xừ lý ỉuồng lưu lượng lớn trên mạng, làm cho việc xử lý tại 
các router bị quá tải. Hậu quả ỉà mất lưu lượng, mất kết nổi và làm giảm đặc tính mạng. 
Ngoài ra, mồi nút trong mạng đều phải thực hiện hai chức năng là định tuyến và chuyển 
tiếp. Quá trình chuyển tiếp chi dựa trên địa chi đích của gói mà không dựa ừên các tham sổ 
chất lượng dịch vụ.
MPLS được xem là giải pháp cho các vấn đề này. Điểm nổi bật của công nghệ MPLS 
là khả năng chuyển tiếp lưu lượng nhanh, đơn giản, điều khiển phân luồng, định tuyến linh 
hoạt và tận dụng tài nguyên mạng. Nó kết hợp những đặc điểm tốt nhất của chuyển mạch 
kênh trong ATM và chuyển mạch gói trong IP, có khả năng chuyển tiếp gói rất nhanh trong 
mạng lõi và định tuyến như bình thường ờ mạng biên. Khi các gói đi vào miền MPLS, 
thường là mạng trục của nhà cung cấp dịch vụ, chúng được chuyển mạch đom giản bằng 
chuyển mạch nhãn. Các nhãn còn giúp xác định chất lượng dịch vụ mà các gỏi nhận được. 
Khi chúng ra khỏi mạng thì các nhãn sẽ được cắt bỏ ở các router biên mạng và được định 
tuyến như thông thường.
MPLS có một số ưu điểm hơn định tuyến IP như chuyển các gói qua mạng nhanh hom 
router IP. Trong IP, việc định tuyén chi dựa vào tiêu đề của gói còn MPLS có thể phân biệt 
các giao diện khác nhau, các thông tin khác nhau để xác định chính sách xử lý thích hợp, đôi 
khi gỏi cỏ thể được định tuyến theo một đường biết trước khi gói đi vào mạng.
Ta xét qua hoạt động của các router hỗ trợ MPLS, gọi là bộ định tuyến chuyển mạch 
nhãn LSR (Label Switching Router): Ở chặng đầu tiên trong mạng MPLS, router chuyển 
tiếp gói dựa vào địa chi đích (hoặc bất cứ thông tin nào ờ phần tiêu đề theo chính sách cục 
bộ); sau đỏ nó xác định một nhãn thích hợp - giá trị này được xác định cho một lớp chuyển 
tiếp tương đương FEC - gán nhãn cho gói và chuyển nó tới nút tiếp theo. Ỏ chặng tiếp theo 
router dùng giá trị của nhãn như một chi mục của một bảng để xác định nhãn mới. LSR gán


24
Chuyển mạch nhản đa giao thức MPLS
nhãn mới rồi chuyển gói đến nút tiếp theo. Tuyến đường mà một gói gán nhân đi qua được 
gọi là đường chuyển mạch nhãn LSP (Label Switched Path). Do MPLS sử dụng nhãn để 
quyết định chặng tiếp theo nên router ít phải làm việc hơn và hoạt động gần giống với 
switch. Vì các nhãn thể hiện các tuyến đường đi trong mạng nên các nhà quản trị mạng có 
thể điều khiển chính xác hom các quá trình xử lý lưu lượng trong mạng bằng cách đùng các 
chính sách nhãn.
Có hai cách chính để gán và phân phổi nhãn là mô hình lái dữ liệu và mô hình lái điều 
khiển. Mô hình lái dữ liệu như chuyển mạch IP (Ipsilon) hay bộ định tuyến chuyển mạch tế 
bào (Toshiba). Mô hình lái điều khiển như chuyển mạch thẻ (Cisco), IP Navigator 
(Ascend/Lucent) và ARIS MPLS (IBM), MPLS.
Khác với quá trình định tuyến và chuyển mạch thông thường của mạng IP ỉà đựa trên 
tiêu đề của gói tin IP, trong mạng MPLS, quá trình chuyển mạch dựa trên một nhân gắn 
thêm vào gói tin. Còn quá ưình định tuyến thì không khác biệt nhiều lắm, tức vẫn dựa vào 
địa chi IP và các giao thức định tuyến để định tuyến. Tuy nhiên router còn phải nắm giữ sự 
thay đổi về nhãn của các gói tin khi đi các gói này được chuyển tiếp qua router. Như vậy, 
khác với router thông thường, các router trong mạng MPLS phải hiểu được các giao thức 
phân phối nhãn. (Tuy nhiên, với định tuyến ràng buộc, ta CQ thể chi định một con đường độc 
lập với các giao thức định tuyến).
Để minh họa hoạt động của MPLS, ta hãy xét đường đi của một gói tin theo từng 
bước trong mạng sau.
Hình 2.1: Sơ đồ mạng.
IP
28
IP 
1 27
IP
24

tải về 7.1 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   121




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương