14
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Chúng ta cùng sẽ khảo sát những kỹ thuật có trước MPLS, các kỹ thuật này đều là kỹ
thuật chuyển mạch nhãn, nhưng môi cái có cách thực hiện riêng. Những tên khác được các
nhà nghiên cứu đặt cho LSR là Bộ định tuyến chuyển mạch tế bào CSR (Cell
Switching
Router), chuyển mạch IP (IP Switching), Bộ định tuyến chuyển mạch thẻ TSR (Tag
Switching Router) hay chuyển mạch thẻ (Tag Switch) và Bộ định tuyến chuyển mạch tích
hợp ISR (Integrated Switch Router). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khác mà chúng ta
không đề cập ờ đây vì nó không khác bốn nghiên cứu ừên lắm. Chúng ta cũng không xét
đến các bộ định tuyến dựa ữên chuyển mạch (Switch-based Routers), có hoạt động giống
một router bình thường nhưng được làm bên trong một Switch hỗn hợp. Những thiết bị đó là
những thiết bị hữu dụng nhưng dùng để giải quyết các vấn đề khác chứ không phải là LSR-
Trước khi xem xét chi tiết các nghiên cứu trên, chúng ta cần nên biết qua một số yếu
tố sau:
1.1. CÁC YÉU TỐ DÂN ĐÉN VIỆC NGHIÊN c ứ u CHUYÊN MẠCH NHÃN
CÓ nhiều yếu tố dẫn đến sự phát triển của chuyển mạch nhãn. Trước kia người ta chi
quan tâm đến một yếu tổ, đó là yêu cầu có những bộ định tuyến IP giá rê, nhưng tốc độ
nhanh. Nó có thể đúng cho một hoặc hai nghiên cứu trước MPLS, chúng ta sẽ đề cập ở phần
sau, nói chung chuyển mạch nhãn được thúc đẩy phát triển bởi nhiều yếu tố khác hơn là yêu
cầu về tốc độ. Trong phần sau, ta sẽ đề cập đến tầm quan trọng của từng yếu tố trong sự phát
ứiển của chuyển mạch nhãn. Tuy nhiên, sự kết hợp của tất cả các yếu tố đó lại sẽ cho ta thấy
tại sao MPLS dường như chắc chắn là một phần của công nghệ về mạng trong hiện tại và
tương lai.
1.1.1. Sự phát triển của Internet
Internet rõ ràng đang phát triển không ngừng, và chính sự phát triển này đã cho thấy
các điểm yếu của các kỹ thuật cũ. Sự gia tăng cả về số lượng người dùng đã làm tăng yêu
cầu về băng thông được cung cấp từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Để thỏa mãn
yêu cầu về băng thông, các ISP cần có những sản phâm chuyên mạch và định tuyến có hiệu
quà cao. Chúng ta sẽ thảo luận về ảnh hường và hiệu quả trong phần kế tiếp.
Khi phát triển nhanh, các mạng phải đối mặt với sự gia tăng số lượng nút mạng, sổ
lượng router trong các bảng định tuyến, số lượng các luồng đi qua một nút mạng,... Nhìn
chung, các nhà cung cấp mạng cần quan tâm đến vấn đề khả năng phát triển, nghĩa là khả
năng phát triển ở mọi hướng. Chuyển mạch nhãn được thúc đẩy một phần cũng do nhu cầu
của vấn đề phát triển.
Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất là nhu cầu đa dạng chức năng định tuyến của
Internet và của mạng IP (IP Network) nói chung. Sự phát triển của Internet liên tục đăt ra
những yêu cầu mới cho các giao thức định tuyến. Trước kia, các chức năng định tuyến khó
có thể đa dạng, một phần lý do là sự giống nhau giữa vấn đề định tuyến và chuyển tiep trong
mạng IP. Ví dụ, xem xét quá trinh xử lý trong việc sử dụng định tuyến liên miền không phân
lớp CIDR (Classless Interdomain Routing). Sự ảnh hường của CIDR là để nói về tien tổ
mạng IP, trước kia là 8, 16 hay 24 bit, giờ có thể lấy tùy ỷ. Sự mờ rộng này cho phép mờ
rộng địa chỉ và thông tin định tuyến. Tuy nhiên, thực hiện thay đổi này cũng yêu cầu thay
Chương 1: Giới thiệu
15
trị nào. Những giải thuật này đã được thực hiện ở cả phần cứng lẫn phần mềm, do đó việc
thay đổi nó không phải là chuyện đơn giản.
Một trong những điểm thú vị của chuyển mạch nhãn là giải thuật định tuyến thì cố
định và những cách điều khiển mới có thể sử dụng mà không cần phải thay đổi nó, và chúng
ta sẽ thấy trong các phần tiếp là các cách điều khiên khác nhau có thể được sử dụng để điều
khiển quá trinh chuyển mạch nhãn và chúng hầu như sử dụng chung giải thuật định tuyến.
Do đó, có thể đưa toàn bộ việc thực hiện giải thuật định tuyến bằng phần cứng hay bằng một
phần mềm có tốc độ cao mà không quan tâm đến việc phải tối ưu lại nó mồi khi triển khai
một chức năng định tuyến mới. Nó hứa hẹn hấp dẫn trong việc phát triển và triển khai
những chức năng mới trong mạng IP. Và đây cỏ thể chính là lợi ích lớn nhất của chuyển
mạch nhãn và kết quả ỉà chuyển mạch nhãn dường như thực hiện nền móng cho thế hệ tiếp
theo của kiến trúc định tuyến.
1.1.2. Giá cả và hiệu quả
Trong bất kì mạng nào mà dựa trên bộ giao thức của Internet, thì một trong các thành
phần quan trọng là bộ định tuyến (router). Nhiệm vụ cơ bản nhất của một router là định
tuyến các gói IP (hoặc datagram) qua mạng. Ngoài ra, router còn thực hiện các chức năng
khác như là lọc ra một luồng của các gói từ những phần khác nhau của mạng. Thật sự, tính
chất quan trọng nhất của một router cho nhiều ứng dụng không phải là tốc độ mà là sự đa
dạng về chức năng mà nó cung cấp.
Một bộ phận quan trọng khác trong mạng đó là chuyển mạch (switch).
Trong khi
router là thiết bị lớp 3 (nó định tuyến các gói IP) thì switch là thiết bị lớp 2 (nó định tuyến
các gói của giao thức lớp 2). So sánh với router thì switch đơn giản hơn, nó chi cung cấp
một số lượng rất giới hạn các giao thức và các kiểu giao tiếp, còn router thường cung cấp
một lượng lớn các giao thức, nhiều kiểu giao tiếp và tốc độ. Giải thuật định tuyến của
switch
thì đơn giản và ít thay đổi, nhiều kiểu chuyển mạch (switch) như chuyển mạch ATM (ATM
switch) hay chuyển mạch Frame Relay (Frame Relay switch) sử dụng giải thuật định tuyến
dựa trên việc trao đổi nhãn.
Với sự khác nhau như vậy giữa switch và router, thì đương nhiên có sự khác nhau về
giá cả / hiệu quả giữa chúng. Nhưng trước hết chúng ta phải xem hiệu quả là gì trong trường
hợp này, việc này khá phức tạp vì bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, tuy nhiên thông thường nó
được tính là số lượng gói mà thiết bị có thể định tuyến trong 1 giây giữa ngõ vào và ngõ ra
trên tổng dung lượng băng thông của nó.
Khi chúng ta xem xét giá cả / hiệu quả của switch và router, ta thấy switch thường trội
hơn. Nghĩa là, với một mức hiệu quả định trước, giá của một router thường cao hom giá của
một switch tương đương, ngược lại, với một chi phí cho trước, một switch thường cho hiệu
quả cao hơn một router vì ta thấy router phải định tuyến gói và thực hiện các dịch vụ khác
trong khi đó switch chi định tuyến gói. v ấn đề mà chúng ta bàn đến ờ đây nhằm mục đích
chi ra là switch thường có hiệu quả cao hom router.
Switch dẫn ra một số yếu tố thúc đẩy đưa ra chuyển mạch nhãn. Chúng ta có thể xây
dựng một thiêt bị mà có thể thực hiện hầu hết các công việc của một router mà sử dụng phần
cứng giống một switch. Khi quy mô Internet được mờ rộng và IP là giao thức duy nhất được
sử dụng thì việc định tuyến IP ở mức giá cả / hiệu quả của một switch quả là hấp dẫn.
16
Chuyển mạch nhãn da giao thức MPLS
1.1.3. Sự tích họp IP trên ATM
Chúng ta biết rằng kiến trúc của ATM rất khác với kiến trác của IP trong khi IP phân
phối các datagram và sử dụng kiểu không kết nối thì ATM dựa trên kiểu huớng kết nối hay
kết nối ảo. ATM và IP cũng hoàn toàn khác nhau trong cách đánh địa chi các host. Những
sự khác nhau này đã đua ra nhiều thách thức lớn, chuyển mạch nhân ra đời cũng nhằm đáp
ứng các thách thức nảy.
Với những ưu điểm của ATM và sự phát triển ngày càng lớn của Internet đã đua ra
vấn đề làm sao đưa kiến trúc IP vào mạng ATM. Sự khác nhau về hiệu quả giữa các chuyển
mạch ATM và các router hiện tại đã làm cho vấn đề thêm phức tạp. Phần lớn mạng hôm nay
được xây dựng theo kiểu là các router tốc độ chậm bao xung quanh các chuyển mạch ATM
(ATM switch) như hình 1.1.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: