I s s É nhà xuất bản t h ỏn g tin và truyền thông chuyển mạch nhãN



tải về 7.1 Mb.
Chế độ xem pdf
trang7/121
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2024
Kích7.1 Mb.
#57338
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   121
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
RSP1Adatasheetv1.9
CHƯƠNG 1: GIỜI THIỆU
Internet là một môi trường khá lý tường cho những phát minh về kỹ thuật mới. Khi 
những kỹ thuật về mạng mới ra đời thì có một vài ý tưởng hấp dẫn đổi với các nhà nghiên 
cứu và đầu tư. Kỹ thuật chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS (Multiprotocol Label 
Switching) là một trong những kỳ thuật đó. Chúng ta sẽ khảo sát sơ lược về kỹ thuật MPLS 
và trả lởi một số câu hỏi về kỹ thuật này, như là, MPLS là gì? nó hoạt động như thế nào? và 
nó sẽ mang lại những lợi ích gì?
MPLS được phát triển từ những kỹ thuật tương tự đã được nghiên cứu giữa thập niên 
90 của thế kỷ 20. Trong đó, kỹ thuật được biết đến nhiều nhất là chuyển mạch IP (IP 
Switching) do các kỹ sư của công ty Ipsilon nghiên cứu, nhưng trước đó Toshiba đã mô tả 
một cách thức tương tự từ nghiên cứu bộ định tuyến chuyển mạch tế bào CSR (Cell 
Switching Router) của họ và nhiều nghiên cứu khác đã được công bố, đáng chú ý là chuyển 
mạch thẻ (Tag Switching) của Cisco và chuyển mạch ỈP dựa trên định tuyến tổng hợp ARỈS 
(Aggregate Route-based IP Switching) của IBM. Tất cả các nghiên cứu trên có vài đặc điểm 
chung là họ đều sử dụng kỹ thuật trao đổi nhãn để định hướng dữ liệu, dùng những mẫu 
điều khiển của bộ giao thức Internet. Nghĩa là, họ sử dụng địa chi IP và các giao thức chuẩn 
định hướng dữ liệu dùng ừong Internet như OSPF và BGP. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó 
khác nhau chủ yếu ờ mục đích của nó cũng như chi tiết xây dựng tạo thành.
Với các hoạt động như vậy, DETF (Internet Engineering Task Force) đã thành lập một 
nhóm nghiên cứu để chuẩn hóa những kết quả chung dựa trên những ý tưởng trên. Vì không 
muốn trùng tên với các sản phẩm của các công ty, IETF đã đặt tên cho nhóm là MPLS 
(Multiprotocol Label Switching). Kỹ thuật MPLS dần đang trở thành một chuẩn công nghiệp.
Chủng ta sẽ nghiên cứu tổng quan và phân tích về kỹ thuật MPLS cũng như những 
vấn đề liên quan. Để dễ dàng hơn trong quá trình tìm hiểu, chúng ta sẽ làm rõ vài thuật ngữ 
được sừ dụng thường xuyên:

Chuyển tiếp (forwarding): là hoạt động chuyển (switch) và định tuyến (route) một gói 
(packet): nhận gói ở một ngõ vào, xác định nó cần đi đến đâu bằng cách xem xét 
trường thông tin trong nỏ và gửi nó ra đúng ngõ ra thích hợp.
• 
Nhãn (label): đơn giản là một khung nhận dạng ngắn, có chiều dài cổ định được dùng 
để định tuyến các gói. Giá trị của nhãn thường được gắn với 1 liên kết đơn (single link).
Nhãn không có cấu trúc, nghĩa là nó không bao gồm những thành phần phân biệt. Một 
thiết bị chuyển mạch nhãn sẽ thay nhãn trong một gói bằng một giá trị mới trước khi chuyển 
tiếp nó tới điểm tiếp theo, do đó chúng ta gọi thuật toán định tuyến là thuật toán trao đổi 
nhãn. Ngoài ra chúng ta còn định nghĩa một thiết bị chuyển mạch nhãn là Bộ định tuyến 
chuyển mạch nhàn LSR (Label Switching Router), dùng nhừng giao thức điều khiển IP 
chuẩn (ví dụ giao thức định tuyến RSVP) để xác đinh phải chuyển tiếp gói đi đâu.


14
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Chúng ta cùng sẽ khảo sát những kỹ thuật có trước MPLS, các kỹ thuật này đều là kỹ 
thuật chuyển mạch nhãn, nhưng môi cái có cách thực hiện riêng. Những tên khác được các 
nhà nghiên cứu đặt cho LSR là Bộ định tuyến chuyển mạch tế bào CSR (Cell Switching 
Router), chuyển mạch IP (IP Switching), Bộ định tuyến chuyển mạch thẻ TSR (Tag 
Switching Router) hay chuyển mạch thẻ (Tag Switch) và Bộ định tuyến chuyển mạch tích 
hợp ISR (Integrated Switch Router). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khác mà chúng ta 
không đề cập ờ đây vì nó không khác bốn nghiên cứu ừên lắm. Chúng ta cũng không xét 
đến các bộ định tuyến dựa ữên chuyển mạch (Switch-based Routers), có hoạt động giống 
một router bình thường nhưng được làm bên trong một Switch hỗn hợp. Những thiết bị đó là 
những thiết bị hữu dụng nhưng dùng để giải quyết các vấn đề khác chứ không phải là LSR-
Trước khi xem xét chi tiết các nghiên cứu trên, chúng ta cần nên biết qua một số yếu 
tố sau:
1.1. CÁC YÉU TỐ DÂN ĐÉN VIỆC NGHIÊN c ứ u CHUYÊN MẠCH NHÃN
CÓ nhiều yếu tố dẫn đến sự phát triển của chuyển mạch nhãn. Trước kia người ta chi 
quan tâm đến một yếu tổ, đó là yêu cầu có những bộ định tuyến IP giá rê, nhưng tốc độ 
nhanh. Nó có thể đúng cho một hoặc hai nghiên cứu trước MPLS, chúng ta sẽ đề cập ở phần 
sau, nói chung chuyển mạch nhãn được thúc đẩy phát triển bởi nhiều yếu tố khác hơn là yêu 
cầu về tốc độ. Trong phần sau, ta sẽ đề cập đến tầm quan trọng của từng yếu tố trong sự phát 
ứiển của chuyển mạch nhãn. Tuy nhiên, sự kết hợp của tất cả các yếu tố đó lại sẽ cho ta thấy 
tại sao MPLS dường như chắc chắn là một phần của công nghệ về mạng trong hiện tại và 
tương lai.
1.1.1. Sự phát triển của Internet
Internet rõ ràng đang phát triển không ngừng, và chính sự phát triển này đã cho thấy 
các điểm yếu của các kỹ thuật cũ. Sự gia tăng cả về số lượng người dùng đã làm tăng yêu 
cầu về băng thông được cung cấp từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Để thỏa mãn 
yêu cầu về băng thông, các ISP cần có những sản phâm chuyên mạch và định tuyến có hiệu 
quà cao. Chúng ta sẽ thảo luận về ảnh hường và hiệu quả trong phần kế tiếp.
Khi phát triển nhanh, các mạng phải đối mặt với sự gia tăng số lượng nút mạng, sổ 
lượng router trong các bảng định tuyến, số lượng các luồng đi qua một nút mạng,... Nhìn 
chung, các nhà cung cấp mạng cần quan tâm đến vấn đề khả năng phát triển, nghĩa là khả 
năng phát triển ở mọi hướng. Chuyển mạch nhãn được thúc đẩy một phần cũng do nhu cầu 
của vấn đề phát triển.
Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất là nhu cầu đa dạng chức năng định tuyến của 
Internet và của mạng IP (IP Network) nói chung. Sự phát triển của Internet liên tục đăt ra 
những yêu cầu mới cho các giao thức định tuyến. Trước kia, các chức năng định tuyến khó 
có thể đa dạng, một phần lý do là sự giống nhau giữa vấn đề định tuyến và chuyển tiep trong 
mạng IP. Ví dụ, xem xét quá trinh xử lý trong việc sử dụng định tuyến liên miền không phân 
lớp CIDR (Classless Interdomain Routing). Sự ảnh hường của CIDR là để nói về tien tổ 
mạng IP, trước kia là 8, 16 hay 24 bit, giờ có thể lấy tùy ỷ. Sự mờ rộng này cho phép mờ 
rộng địa chỉ và thông tin định tuyến. Tuy nhiên, thực hiện thay đổi này cũng yêu cầu thay


Chương 1: Giới thiệu
15
trị nào. Những giải thuật này đã được thực hiện ở cả phần cứng lẫn phần mềm, do đó việc 
thay đổi nó không phải là chuyện đơn giản.
Một trong những điểm thú vị của chuyển mạch nhãn là giải thuật định tuyến thì cố 
định và những cách điều khiển mới có thể sử dụng mà không cần phải thay đổi nó, và chúng 
ta sẽ thấy trong các phần tiếp là các cách điều khiên khác nhau có thể được sử dụng để điều 
khiển quá trinh chuyển mạch nhãn và chúng hầu như sử dụng chung giải thuật định tuyến. 
Do đó, có thể đưa toàn bộ việc thực hiện giải thuật định tuyến bằng phần cứng hay bằng một 
phần mềm có tốc độ cao mà không quan tâm đến việc phải tối ưu lại nó mồi khi triển khai 
một chức năng định tuyến mới. Nó hứa hẹn hấp dẫn trong việc phát triển và triển khai 
những chức năng mới trong mạng IP. Và đây cỏ thể chính là lợi ích lớn nhất của chuyển 
mạch nhãn và kết quả ỉà chuyển mạch nhãn dường như thực hiện nền móng cho thế hệ tiếp 
theo của kiến trúc định tuyến.
1.1.2. Giá cả và hiệu quả
Trong bất kì mạng nào mà dựa trên bộ giao thức của Internet, thì một trong các thành 
phần quan trọng là bộ định tuyến (router). Nhiệm vụ cơ bản nhất của một router là định 
tuyến các gói IP (hoặc datagram) qua mạng. Ngoài ra, router còn thực hiện các chức năng 
khác như là lọc ra một luồng của các gói từ những phần khác nhau của mạng. Thật sự, tính 
chất quan trọng nhất của một router cho nhiều ứng dụng không phải là tốc độ mà là sự đa 
dạng về chức năng mà nó cung cấp.
Một bộ phận quan trọng khác trong mạng đó là chuyển mạch (switch). Trong khi 
router là thiết bị lớp 3 (nó định tuyến các gói IP) thì switch là thiết bị lớp 2 (nó định tuyến 
các gói của giao thức lớp 2). So sánh với router thì switch đơn giản hơn, nó chi cung cấp 
một số lượng rất giới hạn các giao thức và các kiểu giao tiếp, còn router thường cung cấp 
một lượng lớn các giao thức, nhiều kiểu giao tiếp và tốc độ. Giải thuật định tuyến của switch 
thì đơn giản và ít thay đổi, nhiều kiểu chuyển mạch (switch) như chuyển mạch ATM (ATM 
switch) hay chuyển mạch Frame Relay (Frame Relay switch) sử dụng giải thuật định tuyến 
dựa trên việc trao đổi nhãn.
Với sự khác nhau như vậy giữa switch và router, thì đương nhiên có sự khác nhau về 
giá cả / hiệu quả giữa chúng. Nhưng trước hết chúng ta phải xem hiệu quả là gì trong trường 
hợp này, việc này khá phức tạp vì bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, tuy nhiên thông thường nó 
được tính là số lượng gói mà thiết bị có thể định tuyến trong 1 giây giữa ngõ vào và ngõ ra 
trên tổng dung lượng băng thông của nó.
Khi chúng ta xem xét giá cả / hiệu quả của switch và router, ta thấy switch thường trội 
hơn. Nghĩa là, với một mức hiệu quả định trước, giá của một router thường cao hom giá của 
một switch tương đương, ngược lại, với một chi phí cho trước, một switch thường cho hiệu 
quả cao hơn một router vì ta thấy router phải định tuyến gói và thực hiện các dịch vụ khác 
trong khi đó switch chi định tuyến gói. v ấn đề mà chúng ta bàn đến ờ đây nhằm mục đích 
chi ra là switch thường có hiệu quả cao hom router.
Switch dẫn ra một số yếu tố thúc đẩy đưa ra chuyển mạch nhãn. Chúng ta có thể xây 
dựng một thiêt bị mà có thể thực hiện hầu hết các công việc của một router mà sử dụng phần 
cứng giống một switch. Khi quy mô Internet được mờ rộng và IP là giao thức duy nhất được 
sử dụng thì việc định tuyến IP ở mức giá cả / hiệu quả của một switch quả là hấp dẫn.


16
Chuyển mạch nhãn da giao thức MPLS
1.1.3. Sự tích họp IP trên ATM
Chúng ta biết rằng kiến trúc của ATM rất khác với kiến trác của IP trong khi IP phân 
phối các datagram và sử dụng kiểu không kết nối thì ATM dựa trên kiểu huớng kết nối hay 
kết nối ảo. ATM và IP cũng hoàn toàn khác nhau trong cách đánh địa chi các host. Những 
sự khác nhau này đã đua ra nhiều thách thức lớn, chuyển mạch nhân ra đời cũng nhằm đáp 
ứng các thách thức nảy.
Với những ưu điểm của ATM và sự phát triển ngày càng lớn của Internet đã đua ra 
vấn đề làm sao đưa kiến trúc IP vào mạng ATM. Sự khác nhau về hiệu quả giữa các chuyển 
mạch ATM và các router hiện tại đã làm cho vấn đề thêm phức tạp. Phần lớn mạng hôm nay 
được xây dựng theo kiểu là các router tốc độ chậm bao xung quanh các chuyển mạch ATM 
(ATM switch) như hình 1.1.

tải về 7.1 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   121




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương