Chuông 1; Giứi thiệu
21
1.2.2. Chuyển mycb IP [4|
Với nhiều nguyên do, bao gồm tối uu về thời gian, sán phấm có chất lượng, cách thức
tiếp thị hiệu quá, chuyền mạch IP (IP Switching) được định nghĩa ban đầu bởi công ty
Ipsilon đã ành hưởng lớn lên thị trường và giới kỹ thuật hơn là nghiên cứu CSR. Ipsilon
công bố nghiên cứu cùa họ vào đầu năm 1996. v ề mặt kỹ thuật thì hai nghiên cứu có nhiều
điểm tương đồng, tuy nhiên những ưu điểm của chuyển mạch IP hơn các nghiên cứu truớc
đó có thể dễ dàng thấy được như sau:
•
Chuyền mạch IP cho phép 1 thiết bị với hiệu quả cùa một chuyển mạch ATM mà có
thề thực hiện công việc của một router.
•
Những router tốc độ cao (không phải là chuyển mạch ATM) có thể thực hiện bới vi IP
và các giao thức cùa Internet đang là nhũng giao thức chủ yếu hiện nay mà các router
hiện tại thì quá chậm.
•
Báo hiệu ATM và việc ánh xạ IP vào ATM đã trờ nên quá phức tạp, cho mục đích
định tuyến IP chúng ta cũng không cần các giao thức điều khiền ATM.
Những tài liệu của Ipsilon được công bố trong một số các tài liệu Internet là RFC. Mặc
dù không phải tất cả RFC đều là tiêu chuẩn, các tài liệu cùa Ipsilon được coi là nghiên cứu
“mò” vì vài giao thức được công bá đã được thực hiện. Một đóng góp có giá trị nữa là việc
tàm rõ một giao thức điều khiển chuyền mạch đcm giản GSMP cho phép biến bất cử một
chuyển mạch ATM nào thành một chuyến mạch IP với nhũng chức năng mới được bố sung.
Để rõ ràng, chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ chuyến mạch IP là nói về nghiên cửu của
Ipsilon, mặc dù nó thường được sừ dụng ở chỗ khác đé dề cập đến việc mờ rộng vấn đề của
các nghiên cửu khác. Thuật ngữ tổng quát được sử dụng khi cần thiết thì chúng ta sử dụng
thuật ngữ
chuyển mạch nhăn.
1.2.3. Chuyển mạch thè
Vài tháng sau khi Ipsilon công bố nghiên cứu của họ, Cisco Systems công bố một .
nghiên cứu khác về chuyền mạch nhãn mà họ đặt tên là chuyển mạch thè (Tag Switching).
Như chúng ta sẽ thấy ờ phần sau, chuyền mạch thè là một kỹ thuật xuất sắc xuất phát từ các
nghiên cứu chuyển mạch IP và CSR. Ví dụ là nó không dựa trẽn dòng lưu lượng dữ liệu để
thiết lập bảng định tuyến trong chuyển mạch và nó còn được làm để phù hợp với nhiều kỹ
thuật lớp liên kết (link layer) khác nữa ngoài ATM.
Giống Ipsilon, Cisco dùng 1 RFC để mô tà nghiên cứu của họ, nhưng không giống
Ipsilon, Cisco công bố phát minh cùa họ để thuyết phục sự tiêu chuẩn hóa của chuyền mạch
thè qua IETF. Và sau đó, một lượng lớn các bài viết về Internet được công bố, mô tả những
ki vọng cùa chuyển mạch thè, bao gồm hoạt động trên ATM, ppp, liên kết 802.3, hỗ trợ cho
định tuyến
multicast, cho dự trữ tài nguyên sứ dụng RSVP. Sự tiêu chuẩn hóa những cố
gắng làm việc của Cisco đưa ra đã trở thành chuyền mạch nhãn đa giao thức MPLS
(Multiprotocol Label Switching) và MPLS hiện nay được sử dụng rộng rãi như là một thuật
ngữ cùa chuyển mạch nhăn.
1 2.4. ARIS của IBM
Chi sau công bố của Cisco và việc cố gắng tiêu chuẩn hoá cùa IETF một thời gian
ngắn, một lượng bài viêt Intenet đã được phát hành bời các tác giả từ IBM, mô tả một
22
Chuyền mạch nhãn đa giao thức MPLS
nghiên cứu khác về chuyển mạch nhãn gọi là chuyển mạch IP dựa trên bộ định tuyến tổng
hợp (Aggregate Router-based IP Switching) hay ARIS. ARIS thì giống với chuyển mạch thẻ
hơn là các nghiên cứu khác ở chỗ dùng lưu lượng điều khiển để thiết lập bảng định tuyến
chứ không phải dùng lưu lượng dữ liệu, nhưng ARIS khác với chuyển mạch thẻ ờ vài điểm
đáng kể. Nhiều ý tường của ARIS đã có trong việc tiêu chuẩn hóa MPLS.
1.2.5.
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Khi Cisco công bố về chuyển mạch thẻ, họ cũng mong muốn được tiêu chuẩn hóa kỳ
thuật này. Sau một loạt báo cáo đầu tiên của chuyển mạch thẻ trên báo cáo Intenet, một hội
nghị BOF (Bừds of a Feather), là hội nghị cần thiết trước khi tổ chức một nhóm nghiên cứu,
và xác định vấn đề nào cần tiêu chuẩn hóa được tổ chức vào tháng 12 năm 1996, với sự
trình bày của Cisco, IBM, và Toshiba (lúc này công bố những báo cáo mới về CSR).
Với mức độ quan tâm ữong BOF và với thực tế là có quá nhiều công ty đưa ra nhiều
giải pháp tương tự chi cho một vấn đề, thì việc tiêu chuẩn hóa phải ra đời là chuyện phải
làm. Do đỏ việc thành lập nhóm nghiên cứu cho việc tiêu chuẩn hóa được IETF chấp nhận
vào đầu năm 1997. Và cuộc gặp đầu tiên của nhóm diễn ra vào tháng 4 năm 1997.
Như đã nói trên, tên chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS (Multiprotocol
Label
Switching) được chấp nhận chủ yếu bởi tên chuyển mạch IP và chuyển mạch thẻ đã được
đặt cho sản phẩm của các công ty. Mặc dù dùng tên là đa giao thức (Multiprotocol) nhưng
chủ yếu chi tập trung vào các giao thức của IP hơn là các giao thức của lớp mạng khác.
1.3. KẾT LUẬN
Chúng ta đã khảo sát một cách sơ lược sự ra đời của kỹ thuật chuyển mạch nhân. Và
đê hiểu rõ hơn về kỹ thuật này chúng ta sẽ xem xét các nghiên cứu tiêu biểu cho kỹ thuât
này, đó là chuyển mạch IP, chuyển mạch thẻ, sau cùng là MPLS.