I. quản lý: Tính tất yếu khách quan của quản lý



tải về 0.82 Mb.
trang5/8
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.82 Mb.
#13345
1   2   3   4   5   6   7   8

2. Các nguyên tắc quản lý.

2.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý

Nguyên tắc quản lý là những luận điểm cơ bản, phản ánh tính quy luật của hoạt động quản lý, những luận điểm có tính chất định hướng và chỉ đạo hành động buộc nhà quản lý phải tuân theo nhằm đạt mục tiêu quản lý.

Nói cách khác, nguyên tắc quản lý là những quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi, nhưng quan điểm cơ bản chi phối mọi quá trình quản lý mà nhà quản lý phải tuân thủ.

Quy tắc chỉ đạo quy định tính xuyên suốt, chi phối từ đầu đến cuối của quá trình của quản lý, về tính nguyên tắc buộc phải làm như thế, không được làm khác; đồng thời phải thống nhất giữa tính nguyên tắc và tính năng động trong thực hiện. Nguyên tắc cứng nhắc là hỏng việc, nhưng cũng không linh hoạt đến mức độ tùy tiện, vô nguyên tắc. Điều này phụ thuộc vào bản lĩnh, trình độ và kinh nghiệm của nhà quản lý và được biểu hiện ở kết quả công việc.

Tiêu chuẩn hành vi quy định chuẩn mực đánh giá hoạt động quản lý, đòi hỏi nhà quản lý phải thường xuyên rèn luyện theo tiêu chuẩn của nguyên tắc quản lý.

Quan điểm cơ bản trong quản lý nói lên tính định hướng và phạm vi của quản lý, đòi hỏi nhà quản lý phải nắm vững và kiên định thực hiện trong mọi hành vi quản lý và trong suốt quá trình quản lý.

Tóm lại, trong lý luận cũng như trong thực tiễn, nguyên tắc quản lý có vị trí rất quan trọng, nó chỉ đạo quá trình nhận thức và hành động của người quản lý và là cơ sở hình thành các phương pháp quản lý.

2.2. Những cơ sở đề ra nguyên tắc quản lý:

Nguyên tắc quản lý là sản phẩm chủ quan của con người. Để nguyên tắc quản lý đề ra được đúng đắn, phải dựa trên một số cơ sở khoa học chủ yếu sau:

a) Mục tiêu của tổ chức:

Mục tiêu là đích cần đạt, là trạng thái mong đợi có thể có và cần phải có ở đối tượng quản lý, của chủ thể quản lý trong từng thời gian nhất định. Mục tiêu là khởi đầu của quản lý, là động lực của tổ chức. Phải căn cứ vào mục tiêu để quản lý và quản lý vì mục tiêu. Nguyên tắc quản lý cũng nhằm đặt ra để thực hiện mục tiêu, do đó mục tiêu là cơ sở để đề ra các nguyên tắc quản lý. Mục tiêu nào nguyên tắc ấy, mục tiêu thay đổi thì nguyên tắc quản lý cũng thay đổi theo cho phù hợp.

b) Trạng thái (thực trạng) của tổ chức:

Trạng thái của tổ chức là khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào và đầu ra của tổ chức tại một thời điểm nhất định. Nó quy định rõ thời gian, không gian cụ thể của tổ chức ở thời điểm, mà sau đó là giai đoạn quản lý và các nguyên tắc quản lý vận hành đó.

Trạng thái của hệ thống chỉ rõ hệ thống đang đứng ở đâu, tức là xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi, khó khăn, tiềm lực và xu thế phát triển, thời cơ và thách thức phía trước, chỗ có thể và cần phải dựa, điểm có thể và cần phải tránh, cùng xu hướng vận động của môi trường. Trên cơ sở đánh giá thực trạng để dự báo xây dựng mục tiêu quản lý đúng đắn. Như vậy, hiện thực khách quan của tổ chức chính là căn cứ xác đáng để đề ra các nguyên tắc quản lý cho hệ thống đó.

c) Tác động của hệ thống các quy luật:

Quy luật chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của hiện thực, phải là căn cứ chủ yếu để đề ra các nguyên tắc quản lý. Vì chỉ trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu của quy luật khách quan, các nguyên tắc quản lý mới chứa đựng nội dung khoa học, mới có thể đảm bảo cho vận hành quản lý đạt hiệu quả.

Nghệ thuật của việc đề ra các nguyên tắc quản lý là ở chỗ phải biến được đòi hỏi của các quy luật khách quan thành nội dung của các quy tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn hành vi, các quan điểm cơ bản để quản lý tổ chức.



2.3. Các nguyên tắc quản lý

Cơ sở để hình thành nguyên tắc quản lý là bản chất của các quy luật trong các lĩnh vực hoạt động xã hội; những luận điểm cơ bản, những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin; những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng CSVN; những kinh nghiệm thực tiễn quản lý xã hội trong nước và thế giới. Trong quản lý nói chung, cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản sau:



2.3.1. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và thông lệ xã hội:

Các lĩnh vực chính trị, pháp luật, quản lý có mối quan hệ với nhau. Trong đó thể chế chính trị giữ vai trò định hướng chi phối toàn bộ các hoạt động xã hội; hệ thống luật pháp được xây dựng trên nền tảng của các định hướng chính trị, nhằm quy định những điều mà các thành viên trong xã hội được phép và không được phép làm, là cơ sở để chế tài những hành động vi phạm các mối quan hệ được pháp luật bảo vệ. Pháp luật đã tạo ra khung pháp lý cho hoạt động quản lý xã hội.

Mặt khác các giá trị chung cũng như các thông lệ xã hội, các tập tục truyền thống văn hóa, lối sống của dân cư, các hệ tư tưởng tôn giáo,... đều có những tác động nhiều mặt trực tiếp đến các hoạt động của các tổ chức. Do vậy, trong hoạt động quản lý đòi hỏi các nhà quản lý phải luôn luôn đảm bảo sự lãnh đạo về chính trị, tuân thủ pháp luật của Nhà nước và các thông lệ xã hội.

2.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:

Đây là nguyên tắc cơ bản của mọi tổ chức, kể cả các tổ chức kinh tế. Là nguyên tắc quan trọng của hoạt động quản lý.

Nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Tinh thần của nguyên tắc này là đảm bảo sự tập trung thống nhất của chủ thể quản lý trên cơ sở phát triển tối đa sáng kiến của đông đảo người lao động trong quá trình quản lý. Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất.

Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải thống nhất hai mặt: một là phải tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước trung ương trên quy mô toàn quốc về những vấn đề cơ bản, trọng yếu của quản lý nhà nước; hai là phải phát huy và mở rộng tối đa quyền chủ động của các địa phương, các đơn vị cơ sở, của quần chúng nhân dân trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể bằng các giải pháp, phương tiện đa dạng, sáng tạo.

Chế độ tập trung trong quản lý nhà nước đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, ngăn chặn khuyng hướng vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa.

Dân chủ trong quản lý nhà nước là hình thức quản lý hiệu quả nhất, nó giải phóng được năng lực to lớn của quần chúng, làm tăng gấp bội hiệu quả các điều kiện, phương tiện quản lý xã hội.



  • Bản chất của tập trung thống nhất trong quản lý nhà nước:

- Thống nhất chặt chẽ về tổ chức;

- Thống nhất về ý chí và hành động của các cấp, các ngành, các đơn vị, các thành viên trong hệ thống (cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý).

- Mệnh lệnh từ trên xuống phải được thực hiện một cách nghiêm túc.

- Biểu hiện của sự chỉ huy tập trung thống nhất trong quản lý nhà nước là: Quan hệ giữa chỉ huy và chấp hành; giữa chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới và sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên; bộ phận phải chấp hành toàn thể, địa phương phải phục tùng trung ương.

Phương thức thực hiện sự chỉ huy tập trung thống nhất chủ yếu bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.


  • Bản chất của dân chủ trong quản lý nhà nước :

Dân chủ trong quản lý là sự huy động trí lực của mọi người để tiến hành quản lý. Dân chủ trong quản lý thể hiện:

- Dân chủ hoá trước lúc ra quyết định.

- Phi tập trung hoá quyền hạn của cấp trên, của thủ trưởng đối với cấp dưới.

- Nghiệp vụ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động.

- Hợp lý hoá và công khai hóa việc đầu tư kinh phí đối với cơ sở v.v...

Tóm lại: Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo toàn bộ các quan hệ quản lý. Sử dụng không đúng nguyên tắc này sẽ dẫn đến: hoặc là tập trung quan liêu, độc đoán chuyên quyền, mất dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc dân chủ quá trớn, vô chính phủ.



2.3.3. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích:

Quản lý suy cho cùng là quản lý con người nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của người lao động. Mặt khác, động lực của quản lý là lợi ích, bao gồm lợi ích cá nhân người lao động, lợi ích tổ chức và lợi ích của xã hội. Do đó nguyên tắc quan trọng của quản lý là phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa các lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp.

Lợi ích vừa lài mục tiêu, vừa là nhu cầu, vừa là động lực khiến con người hành động. Nếu có sự nhất trí về lợi ích và nhu cầu sẽ có sự nhất trí về mục tiêu và hành động. Nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp hài hòa các lợi ích có liên quan đến tổ chức trên cơ sở những đòi hỏi của quy luật khách quan. Kết hợp các lợi ích là thỏa mãn đồng thời các lợi ích theo đúng nhu cầu, bảo đảm cho các lợi ích không mâu thuẫn, đối lập nhau, cùng có tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển. Việc kết hợp các lợi ích đòi hỏi hoạt động quản lý phải chú trọng thích đáng từng loại lợi ích trong việc xác định nhiệm vụ, chỉ tiêu, giải quyết các công việc cụ thể như huy động vốn, phân chia lợi nhuận v.v.

Thực hiện nguyên tắc này cần chú ý một số vấn đề sau:

- Các quyết định quản lý phải quan tâm trước hết đến lợi ích người lao động.

- Phải đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, bởi vì lợi ích cá nhân không thể bền vững và ngày càng được thỏa mãn cao hơn nếu không đồng thời chăm lo đến lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.

- Phải coi trọng và có những biện pháp thích hợp đối với cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, cả của tập thể và cá nhân người lao động.

2.3.4. Nguyên tắc đảm bảo tính kế hoạch và tính linh hoạt:

Nguyên tắc đảm bảo tính kế hoạch và tính linh hoạt phản án mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, giữa khoa học quản lý và nghệ thuật quản lý.

Quản lý là một hoạt động phức tạp đòi hỏi phải có kế hoạch. Quản lý theo kế hoạch là quản lý một cách khoa học. Xây dựng kế hoạch là chức năng hàng đầu của hoạt động quản lý, đồng thời kế hoạch là công cụ quan trọng của người quản lý.

Mặt khác, thực tiễn luôn vận động, biến đổi vì vậy trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phải bổ sung, điều chỉnh kế hoạch một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế.

Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc này:

- Có thói quen, nề nếp làm việc có kế hoạch đối với mọi hoạt động của tổ chức.

- Biết xây dựng hệ thống nhiều kế hoạch khác nhau như kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, kế hoạch tổng thể, kế hoạch bộ phận, kế hoạch từng hoạt động v.v.

- Kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và cùng hướng tới mục tiêu chung.

- Kế hoạch phải phản ánh được những vấn đề then chốt nhất, cơ bản nhất của tổ chức, phân chia thời gian và nhiệm vụ hợp lý cho các lực lượng thực hiện. Kế hoạch phải có tính khả thi.

- Người quản lý phải quyết tâm tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, phát hiện xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch để điều chỉnh bổ sung.



2.3.5. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả:

Quản lý là quá trình tổ chức, sử dụng các nguồn lực (đầu vào) để đạt được kết quả (đầu ra) theo đúng mục tiêu của tổ chức. Vì vậy, bất cứ một nhà quản lý nào cũng quan tâm đến vấn đề tiết kiệm và hiệu quả của tổ chức. Tiết kiệm và hiệu quả vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc của hoạt động quản lý.

Tiết kiệm là chi phí, tiêu dùng một cách hợp lý trong khả năng và điều kiện cho phép. Hay nói cách khác là chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đảm bảo kết quả các hoạt động ở mức tối đa. Trong sản suất kinh doanh cũng như tiến hành một hoạt động nào đó bao giờ cũng đòi hỏi phải tiết kiệm chi phí các nguồn lực như tiền vốn, vật tư, sức lao động, thời gian v.v...

Hiệu quả được xác định là kết quả cuối cùng của hoạt động so với chi phí. Muốn tăng hiệu quả phải bằng cách tăng kết quả và giảm chi phí. Tăng kết quả bằng cách tăng năng suất lao động, giảm chi phí, tiết kiệm các yếu tố đầu vào và tiết kiệm thời gian.

Tiết kiệm và hiệu quả có mối quan hệ hữu cơ với nhau: tiết kiệm chỉ có ý nghĩa khi đạt được hiệu quả cao, hiệu quả chính là tiết kiệm theo nghĩa rộng và đầy đủ nhất. Tiết kiệm và hiệu quả là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của hoạt động quản lý và năng lực của người quản lý.

Thực hiện nguyên tắc này cần sử dụng các phương thức quản lý tiên tiến nhất mới tiết kiệm được chi phí và đem lại hiệu quả cao như:

- Giảm chi phí vật tư, nguyên liệu trong sản suất một cách hợp lý để hạ giá thành sản phẩm bằng các biện pháp như áp dụng kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, cải tiến kết cấu sản phẩm, v.v...

- Sử dụng đúng sức lao động, tận dụng mọi nguồn lực.

- Đầu tư có trọng điểm và sớm phát huy tác dụng, hiệu quả của các công trình, dự án, chống thất thoát, lãng phí.

- Sử dụng đúng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái.

2.4. Vận dụng các nguyên tắc quản lý

Vân dụng các nguyên tắc trong thực tiễn quản lý là một hoạt động sáng tạo. Người quản lý giỏi là người biết vận dụng một cách thích hợp các nguyên tắc vào những tình huống và đối tượng cụ thể. Nắm vững bản chất của nguyên tắc, am hiểu sâu sắc đối tượng quản lý, sáng tạo những hình thức và biện pháp thích hợp là điều kiện cơ bản đảm bảo vận dụng đúng đắn các nguyên tắc.

Trong quá trình vận dụng các nguyên tắc quản lý cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau:

- Coi trọng việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc quản lý.

- Vận dụng tổng hợp các nguyên tắc quản lý.

- Lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng nguyên tắc phù hợp với đối tượng quản lý, cấp quản lý và những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.

- Khi vận dụng các nguyên tắc cần cần tìm hiểu:

+ Bản chất của các mối quan hệ mà nguyên tắc phản ánh;

+ Nội dung và yêu cầu của nguyên tắc;

+ Những biểu hiện tích cực và tiêu cực của quá trình thực hiện các nguyên tắc trong thực tiễn.



3. Phương pháp quản lý.

3.1. Khái niệm về phương pháp quản lý

Phương pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng quản lý (cấp dưới và các tiềm năng có được của tổ chức…), khuyến khích, động viên, thúc đẩy họ hoàn thành tốt công việc được giao nhằm đạt được mục tiêu dự kiến; đồng thời là cách thức tác động đến khách thể quản lý (các tổ chức khác, các ràng buộc của môi trường..). Phương pháp quản lý được sử dụng như là những công cụ quan trọng để người quản lý thực hiện mục tiêu có kết quả.

Trong quản lý, giữa nguyên tắc và phương pháp có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nguyên tắc quản lý là những tư tưởng chi phối hành động, nguyên tắc không mang lại kết quả cụ thể mà phải thông qua phương pháp; còn phương pháp quản lý thì hình thành trên cơ sở các nguyên tắc quản lý. Trong bất kỳ tình huống nào cũng đều phải vận dụng đúng nguyên tắc và sử dụng phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng, không gian, thời gian...; nguyên tắc giúp người quản lý biết phải làm gì để từ đó có phương án giải quyết; còn phương pháp giúp người quản lý biết phải tác động đến người thừa hành như thế nào, bằng cách nào để động viên thúc đẩy họ thực hiện phương án đã lựa chọn.

Phương pháp là bộ phận năng động nhất trong quá trình quản lý. Các phương pháp quản lý quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống đồng bộ hỗ trợ cho nhau. Sử dụng các phương pháp quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật quản lý biểu hiện ở chỗ người quản lý biết lựa chọn phương pháp thích hợp, biết thay đổi phương pháp trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau để sử dụng tốt nhất tiềm năng của tổ chức. Quản lý có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ quản lý của các chủ thể quản lý nói riêng, các nhà quản lý nói chung.

Để nắm vững các tác động đa dạng, phong phú của các phương pháp quản lý, cần phân loại và đi sâu nghiên cứu từng phương pháp trước khi áp dụng một phương pháp nào để quản lý một đối tượng nhất định. Có nhiều cách phân loại phương pháp quản lý, mỗi phương pháp thực sự là một hệ thống bao gồm nhiều phương pháp (cách thức) khác nhau.

5.3.2. Các phương pháp quản lý cơ bản

5.3.2.1. Phương pháp hành chính:

Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của cơ quan quản lý cấp trên đến cơ quan quản lý cấp dưới và đến từng người thừa hành bằng các mệnh lệnh, quyết định dứt khoát, đó là những vấn đề bắt buộc phải tuân theo (nghĩa là khi quyết định đã ban hành mọi người phải triệt để tuân theo). Về phương diện quản lý, nó biểu hiện thành mối quan hệ giữa quyền uy và phục tùng. Phương pháp này có vai trò rất cơ bản trong việc điều tiết các quan hệ quản lý, nó xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc pháp chế XHCN.

Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính là tính bắt buộc đối với người chấp hành thông qua tác động trực tiếp của người quản lý đối với người bị quản lý, thể hiện trong các quyết định bố trí, phân công, phân nhiệm, phân cấp, phân quyền; trong chỉ đạo điều hành và giữ gìn kỷ cương nề nếp, giữa các tổ chức và thành viên của hệ thống.

Nội dung của phương pháp hành chính là tác động bằng luật pháp. Tức là các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật đó để điều tiết các quan hệ trong toàn bộ hệ thống.

Các cấp quản lý thực hiện quyền hạn, trách nhiệm và bảo đảm được mối quan hệ hữu cơ giữa quyền hạn và trách nhiệm trong việc ra quyết định quản lý. Tức là người quản lý khi sử dụng quyền hạn của mình phải có trách nhiệm về các quyền hạn đó. Khi sử dụng phương pháp hành chính đòi hỏi các quyết định quản lý phải đúng đắn, nếu quyết định sai sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng.

Các cơ quan cấp dưới cũng như toàn bộ cán bộ, nhân viên phải thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền hạn của mình trong việc thực hiện các quyết định quản lý (bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn). Chỉ người có thẩm quyền ra quyết định mới có quyền hạn thay đổi quyết định.

Phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng: tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý.

+ Tác động về tổ chức là xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý và tiêu chuẩn hoá mọi hoạt động của hệ thống quản lý trên cơ sở những quy định có tính chất pháp chế như luật, điều lệ, quy chế chuyên môn..., những quy định này có tính chất ổn định.

+ Tác động điều chỉnh hành vi của đối tượng quản lý là nhằm cụ thể hoá, bổ sung cho các tác động về tổ chức; thể hiện ở các quyết định không mang tính chất ổn định, đó là mệnh lệnh đề ra cho cấp dưới thực hiện trong từng hoạt động hay trường hợp cụ thể.

Trong các tổ chức, nếu như điều lệ, kế hoạch, chương trình, quy chế chuyên môn... là những tác động về tổ chức, thì hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ, điều động các bộ công chức... là những tác động điều chỉnh. Tác động về tổ chức càng chính xác thì tác động điều chỉnh càng giảm bớt.

Phương pháp hành chính là tối cần thiết trong quản lý, nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ dẫn đến tình trạng quan liêu mệnh lệnh. Ta cần phân biệt phương pháp hành chính với kiểu quản lý hành chính quan liêu do việc lạm dụng kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan. Nếu người quản lý và các cơ quan quản lý thiếu tỉnh táo, say mê quyền lực sẽ dẫn tới bệnh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, tham những, đặc quyền đặc lợi… và kết quả sẽ hạn chế sức sáng tạo của người lao động, xúc phạm nhân cách của con người, gây ra những tổn thất, thậm chí phá hủy hệ thống tổ chức. Đó cũng là nhược điểm của phương pháp hành chính. Vì vậy, sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi nhà quản lý phải nắm vững những yêu cầu chặt chẽ sau:

Một là, quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mọi mặt. Khi đưa ra quyết định hành chính phải cân nhắc, tính toán đầy đủ về mọi phương diện. Người ra quyết định phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên khi đưa ra quyết định phải cố gắng có đủ những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định, tính toán đầy đủ đến lợi ích và các khía cạnh có liên quan đảm bảo cho quyết định hành chính có căn cứ khoa học.

Hai là, khi sử dụng các biện pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn, trách nhiệm của người ra quyết định. Mỗi cấp quản lý, mỗi cán bộ không phải chỉ có quyền hạn của mình mà còn phải có trách nhiệm về việc sử dụng những quyền hạn đó. Nếu quyền hạn không tương xứng với trách nhiệm sẽ dẫn đến không dám ra quyết định vì sợ trách nhiệm, hoặc đưa ra trách nhiệm hành chính nhưng không chịu trách nhiệm. Cả 2 trường hợp trên đều là môi trường tốt cho tư tưởng và hành động quan liêu.

Ba là, trong mọi trường hợp, cần tránh xa hình thức quản lý mệnh lệnh tuyệt đối, xem nhẹ nhân cách của người chấp hành.



3.2.2. Phương pháp tâm lý – giáo dục

Phương pháp tâm lý - giáo dục là những cách thức tác động của người quản lý tới đối tượng quản lý nhằm biến đổi những yêu cầu của các cấp quản lý thành nhu cầu của đối tượng quản lý. Phương pháp này chủ yếu tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm và hành động người lao động, tạo cho họ có khả năng làm việc đạt kêt quả cao hơn, tạo không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể, hăng say làm việc; giải quyết những vướng mắc về tư tưởng, động viên giúp đỡ họ vượt qua khó khăn trong công tác và cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

Phương pháp tâm lý - giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý vì một trong những đối tượng của quản lý là con người - một thực thể năng động, tổng hòa nhiều mối quan hệ. Tác động vào con người không chỉ có hành chính, kinh tế, mà còn tác động tinh thần, tâm lý, xã hội…

Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục và kích thích tinh thần. Tính thuyết phục làm cho người lao động phân biệt phải - trái, đúng - sai, lợi - hại, đẹp - xấu, thiện - ác…, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với tổ chức. Sự kích thích tinh thần tạo nên niềm tin vào chính nghĩa, tạo nên nguyện vọng cải tạo cuộc sống theo quy luật của cái đẹp về nghệ thuật. Hành động của con người không chỉ được thúc đẩy bằng những mệnh lệnh hành chính và những nhân tố kích thích vật chất thuần túy, mà trong quá trình hoạt động, để đảm bảo những lợi ích vật chất của mình con người không thể đối lập với xã hội. Nghĩa là, tính cộng đồng của con người chỉ được được phát huy khi có những kích thích về tinh thần.

Phương pháp tâm lý - giáo dục thường được kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc đến từng người lao động, có tác dụng giáo dục rộng rãi trong tổ chức. Đây là một trong những bí quyết thành công của các tổ chức, doanh nghiệp Nhật Bản hiện nay.

Phương pháp tâm lý - giáo dục có các nội dung cơ bản:

- Tuyên truyền giáo dục đường lối, chủ trương, mục tiêu của tổ chức quản lý để mọi người hiểu,ủng hộ và quyết tâm xây dựng tổ chức, có ý thức làm giàu.

- Giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp, yêu nghề, cố gắng trau dồi nghề nghiệp, ý thức được trách nhiệm của người lao động.

- Xây dựng bầu không khí đoàn kết, tin cậy và yêu mến nhau trong tập thể để mỗi người yên tâm, gắn bó với tập thể lao động của mình.

- Xóa bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đình, đầu óc thiển cận, hẹp hòi, tư tưởng cục bộ, địa phương, phường hội, bình quân chủ nghĩa, ghen ghét, đố kỵ…;

- Xóa bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến, thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thích lãnh đạo, thích đặc quyền, đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm lớp trẻ…

- Xóa bỏ tàn dư tư tưởng tư sản với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng, vô đạo đức, chủ nghĩa tự do vô chính phủ, cá lớn nuốt cá bé…

- Cải thiện đời sống vật chất, tinh thần hàng ngày cho người lao động, làm cho họ yên tâm phấn khởi lao động.

- Mỗi người đều phát huy được sở trường và có vai trò trong tập thể lao động; biểu dương khen thưởng đúng mức và kịp thời, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của tập thể lao động.

- Giải toả một cách hợp tình hợp lý các xung đột, xây dựng tốt các mối quan hệ công tác và sinh hoạt trong và ngoài tổ chức.

Nhóm phương pháp tâm lý - xã hội bao gồm: phương pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, tạo dư luận xã hội, giao công việc và yêu cầu cao v.v...



3.2.3. Phương pháp kinh tế:

Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp vào đối tượng bị quản lý, thông qua cách thức vận dụng các lợi ích và các đòn bẩy kinh tế để kích thích cá nhân, tập thể tích cực tham gia các công việc chung và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đây là một phương pháp có tác động mạnh mẽ và hiệu quả cao dựa trên sự kết hợp giữa việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với lợi ích của người lao động.

Đặc điểm cơ bản của phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu phải đạt, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ. Chính các cá nhân, tập thể (với tư cách là đối tượng quản lý) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và chọn phương án giải quyết vấn đề. Các phương pháp kinh tế chấp nhận có thể có những giải pháp kinh tế khác nhau cho cùng một vấn đề. Đồng thời khi sử dụng phương pháp kinh tế, chủ thể quản lý phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện để lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể phù hợp với lợi ích chung của tổ chức.

Các phương pháp kinh tế mở rộng quyền chủ động cho các cá nhân và cấp dưới, đồng thời tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp cho chủ thể quản lý giảm được việc điều hành, kiểm tra, đôn đốc chi li, vụn vặt mang tính chất sự vụ hành chính, nâng cao ý thức tự giác cho người lao động. Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn được các chủ thể quản lý định hướng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu không bị gò ép, áp đặt mà phải có căn cứ khoa học.

Trong quản lý người ta áp dụng các phương pháp kinh tế để tính vốn đầu tư, giá thành sản phẩm, áp dụng các chỉ tiêu, định mức lao động, áp dụng các biện pháp khuyến khích vật chất qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp v.v... Người lãnh đạo thường tác động vào đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo những hướng sau:

- Định hướng phát triển chung cho tổ chức bằng các mục tiêu, chỉ tiêu, định mức, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của tổ chức, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ, từng cá nhân của tổ chức.

- Sử dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật, các biện pháp đòn bẩy kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, lôi cuốn khuyến khích cá nhân phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Bằng chế độ thưởng, phạt vật chất, trách nhiệm kinh tế chặt chẽ để điều chỉnh hoạt động của các bộ phận, các cá nhân, xác lập trật tự kỷ cương, xác lập chế độ trách nhiệm cho mọi bộ phận, mọi phân hệ đến từng người lao động trong tổ chức.

Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động (môi trường làm việc) cúa họ mà không cần thường xuyên tác động về mặt kinh tế.

Mọi hoạt động của con người đểu tuân theo các quy luật kinh tế khách quan. Sự chi phối của các quy luật đối với hoạt động của con người đều thông qua lợi ích kinh tế. Các phương pháp kinh tế tác động thông qua lợi ích kinh tế, nghĩa là thông qua sự vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẫy kích thích kinh tế, các định mức kinh tế kỹ thuật, đó thực chất là sự vận dụng các quy luật kinh tế.

Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính ra tạo ra động lực thúc đẩy con người tích cực lao động. Động lực đó sẽ càng lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn các lợi ích tồn tại khách quan trong tổ chức. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý (cá nhân hoặc tập thể), xuất phát từ đó mà họ lựa chọn các phương án hoạt động, đảm bảo cho lợi ích chung cũng được thực hiện.

Vì vậy, thực chất của các phương pháp kinh tế là đặt mỗi người lao động, mỗi tập thể lao động vào những điều kiện kinh tế để họ có khả năng kết hợp đúng đắn lợi ích của mình với lợi ích của tổ chức. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con đường hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình.

Ngày nay, phương pháp kinh tế đang được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực quản lý. Để áp dụng tốt phương pháp này, cần phải chú ý đến một số vấn đề quan trọng sau đây:

Một là, việc áp dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn gắn việc sử dụng đúng các đòn bẫy kinh tế như giá cả, lợi nhuận, lãi suất, tín dụng, tiền lương, tiền thưởng… Nói cách khác, việc sử dụng các phương pháp kinh tế gắn với việc sử dụng các phạm trù kinh tế, nhất là các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường.

Hai là, để áp dụng phương pháp kinh tế, phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý. Bởi vì khi quá trình phân công lao động được mở rộng và ngày càng trở nên sâu sắc thì mối quan hệ trong đời sống kinh tế càng trở nên phức tạp hơn, việc quản lý sẽ phức tạp và kết quả sẽ đạt được cao nhất ở nơi mà việc áp dụng các phương pháp kinh tế được mở rộng. Khi sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế, các cơ quan cấp dưới không chỉ là người thực hiện mà họ còn có trách nhiệm với công việc của mình. Có những vấn đề trước đây do cơ quan cấp trên giải quyết, bây giờ do chính cấp dưới tự giải quyết. Như vậy, việc mở rộng quyền hạn cho cấp dưới không chỉ là hình thức mà còn trở thành hiện thực có hiệu quả.

Ba là, sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý kinh tế phải có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì, sử dụng các phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết và thông thạo nhiều loại kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có bản lĩnh và tính tự chủ cao.



3.3. Sự lựa chọn và kết hợp các phương pháp quản lý

- Không có phương pháp quản lý vạn năng, phương pháp nào cũng có ưu điểm và hạn chế, vì vậy phải biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp thích hợp tuỳ theo công việc, con người, hoàn cảnh, điều kiện, thời gian ... tránh rập khuôn máy móc.

- Muốn lựa chọn phương pháp hữu hiệu người quản lý phải nắm vững đối tượng, có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm quản lý phong phú.

- Có thể áp dụng các phương pháp quản lý bằng cách: lựa chọn phương pháp thích hợp khi đã phân tích đầy đủ mục tiêu cần đạt và các điều kiện có thể kể cả thực trạng của đối tượng. Áp dụng thử phương pháp trong diện hẹp sau khi rút kinh nghiệm và đánh giá kết quả rồi mới quyết định áp dụng phương pháp đó ra diện rộng.

Một số phương pháp quản lý thường được áp dụng: ban hành văn bản quy chế làm việc trong hệ thống; ký kết hợp đồng lao động; sử dụng người này để khống chế, kiểm soát người kia; xây dựng các điển hình và các danh hiệu tôn vinh để xét tặng cho những cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp cho tổ chức; tạo môi trường làm việc hiệu quả, ổn định; thực hiện các hình thức truyền thông trong hệ thống; mở rộng các mối quan hệ đối ngoại; sử dụng các hình thức sinh hoạt, nghỉ ngơi, giao tiếp rộng rãi.



tải về 0.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương