ĐẠI-ĐẠo tam-kỳ phổ-ĐỘ TÒa-thánh đỊnh-tưỜng hội-thánh chơn-lý thiêN-ĐẠo chơn-truyềN


- CAO thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình thế gian mục



tải về 2.13 Mb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích2.13 Mb.
#38293
1   2   3   4   5

- CAO thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình thế gian mục

- ĐÀI tiền sùng bái Tam Kỳ vui hưởng tự do quyền.

—————————d&c—————————



II.
LỜI TIÊN TRI TIỂU NHỨT THỜI
TIÊN TRI

Ngày 17 tháng 9 năm Bính-Dần

(Đàn 27 Octobre1926).

Tá danh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáo Đạo Nam-Phương, Đức Chúa-Trời phép tắc vô cùng truyền dạy cho mấy người Lang-sa như sau nầy:

“Thế gian hiện thời chịu tha thiết muôn vàn tân khổ, nên Thầy sai Allan Kardec và Flammarion (viết sách Thần linh giáo dạy người Pháp) cũng như thuở xưa Thầy sai Thánh Elie và Saint Jean Baptiste rao trước cho hay rằng Chúa cứu thế Jésus ra đời.

Hai Thánh Nhơn nầy: 1 vị thì bị hiếp đáp khổ sở, 1 vị nữa bị tử hình; tại nơi ai đó? tại nhơn loại chớ ai!

Con Một của Ta đây cũng bị chúng bây giết chết, chúng bây kính nó như một vị Thần kia không kể là một vị Thánh Tiên.

Thuở xưa Ta muốn nói chuyện với các con một phen cho rành rẽ là hồi đời Moise trên đảnh Sinai mà các con không hiểu rõ lời của Thầy dạy. Thầy đã hứa với Tổ-Tông các con rằng: Thầy sẽ cứu các con, nghĩa là Thầy có tiên tri cho hay rằng: Chúa Cứu Thế sẽ ra đời, mà các con không tin lời thành thật của Thầy.

Bởi vậy cho nên hiện thời chính mình Thầy phải dùng huyền cơ diệu bút mà độ các con cho chắc ý đặng đến ngày Phán Đoán Đại Đồng các con không còn chối cãi rằng: Thầy không hết lòng với nhơn loại mà độ rỗi các con.

Dầu Thầy có lòng hết sức đi nữa, Thầy cũng không có thể xóa hết tội tiền khiên của các con tạo ra từ hồi Vô-Thỉ đến giờ.

Thế gian ngày nay ở trong vòng hắc ám, đức tánh của Trời ban cho nhơn loại đã tiêu tan cả, sự nghịch lẫn nhau càng ngày càng tấn tới, thế thì sự chiến tranh trong hoàn cầu không tránh khỏi được.

Dân Pháp và dân Nam-Việt là hai sắc dân Thầy ủng hộ hơn hết nên Thầy ước ao cho hai nước được hòa thuận với nhau luôn luôn. Đạo Trời của Thầy gieo truyền đây là cốt để dạy Pháp-Việt đề huề mà lo chung quyền lợi và kinh tế lâu dài.

Hai nước hãy liên hiệp sanh hoạt với nhau và khuyên dạy cho thế gian giữ hòa bình và sự thuận thảo cùng nhau là hay hơn hết.

Chiều ngày nay Thầy dạy bấy nhiêu là đủ”.

—————————d&c—————————
Mercredi, 27 Octobre 1926 (17 tháng 9 năm Bính Dần)
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài [TĐ.I/ 31]

Tiên Ông, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

Giáo Đạo Nam Phương.

“L’humanité souffre de toutes sortes de vicissi-tudes. J’ai envoyé Allan Kardec; j’ai envoyé Flamma-rion comme j’ai envoyé Elie et Saint-Jean-Baptiste, précurseurs de l’avènement de Jésus Christ l’un est me sécuté et l’autre tué. Et par qui? Par l’humanité! Mon fils est aussi tué parvous vous ne le vénérez qu’en Esprit et uon en Sainteté.

Je voulais causer avec vous en une seule fois au temps de Moise sur le Mont Sinai, vous ne pouviez me comprendre. La promesse que j’ai faite à vos ancêtres pour votre Rédemption, la venue du Christ est prédite, vous ne voulez pas en tenir compte. Il faut que je me serve moi-même maintenant d’un moyen plus spirituel pour vous convaincre. Vous ne pourrez pas l’humanite par tous moyens plausibles. Quelque indulgent que je sois, je ne pourrai effacer tous vos péchés de puis votre création. Le monde est dès maintenant dans les ténèbres. La vertu de Dieu est détruite; la haine universelle s’envenime la guerre mondiable est ineùvi-table.

La race francaise et la race annamite sont mes deux filles beùnites.

Je voudrais que vous soyiez unies par toujours. La nouvelle doctrine que j’enseigne a pour but de vous mettre dansune communauteự d’inteựreõts et de vie. Soyez donc unies par la volonteự et preựchez au mond la paix et la concorde.

En voilaø assez pour vous ce soir”.

Extrait du Thanh ngôn Hiệp-Tuyển de l’ancien

Tòa-Thánh Tây-Ninh (Edition 1928).

—————————d&c—————————

B. I

Trong một bài chơn đạo truyền ngày 13 Janvier 1927, Chơn Linh Đức Lý-Thái-Bạch, Tam-Trấn của Đại Đạo trước mặt ít vị Lang-sa hầu đàn, giải nghĩa như sau nầy:

Quí Huynh đệ:

Lão không có lợi dụng đức tin của quí huynh đệ đặng bày sự bóng chàng mờ ám và nói tiên tri điều tà thuyết. Lão quyết nhứt là phô bày sự hữu ích của cái Đạo nầy, vì có một mình nó đem được sự hòa bình lại trong thế gian mà thôi.

Cái tôn chỉ Đạo nầy hiện thời có gieo truyền trong các sắc dân cho biết kính mến Đức Chúa Trời và yêu dấu cả nhơn loại; truyền sự hành vi đạo đức, sự ngay thật và học tánh nhịn nhục với nhau; tỏ bày cho nhơn loại biết rằng các sự-phải của người làm hiện thời đều sẽ có kết quả tốt trong lúc cuối cùng cho phần thiêng liêng được sáng suốt, ấy là mục đích cao thượng của Đại Đạo.

Các tôn chỉ của Tam-Giáo hiện giờ đều bị canh cải hết. Sự trật tự và sự thái bình đời xưa trong cả thế gian đều suy tồi. Luật phong hóa của nhơn loại đều trái ngược.

Thánh truyền của Đạo Thiên-Chúa để dụng mà dứt lòng tham lam của người mạnh hiếp kẻ yếu hèn và làm cho người khôn đủ binh bị đặng chống với kẻ dại khờ. Theo mấy người không suy xét và không tin thì tiếng Đức Chúa Trời dùng mà nói nơi chót lưỡi đầu môi đó thôi.

Phải có một cái Đạo mới đặng dạy nhơn loại khắn khít trong sự thương xót chúng sanh, hiện giờ còn có một mình nước Nam duy trì thành thật cái tôn chỉ muôn năm: thờ phượng Vong-Linh.

Quí huynh đệ, Đức Chúa Trời bác ái đã giáng trần tại đây đặng phong con đường chí thiện đặng dìu dắt nhơn sanh, cả thảy phải ráng mà đi theo Chúa đặng ngày sau hưởng hạnh phúc, mỗi ngày phải bước cho lẹ trong sự kính mến Chúa. Cả thảy phải hòa hiệp và tương thân tương ái nhau. Phải giúp lẫn nhau, ấy là Thánh-ý của Tạo-Hóa định vậy.

Ở trần thế nầy là nơi chúng ta bị luân hồi tái kiếp đặng trả nợ thế, nếu chúng ta còn mài miệt trong sự ích kỷ lợi ta hại người, gây tai họa và tân khổ sở cho người, cho kẻ khác thì chúng ta sẽ vào A-Tỳ, là nơi kẻ hung bạo phải bị tiêu diệt phần xác và trầm luân phần hồn.

LÃO KIẾU.

—————————d&c—————————


Dans un message transmis le 13 Janvier 1927. Lý-Thái-Bạch, Esprit Ministre de Dieu en quelques Europeùens, exposaen francais comme ci-apreøs le but de la nouvelle doctrine:

Chers freøres:

Loin d’exploiter votre reùduliteù par de pueùrites sorceleries ou des propheùties charlatanesque. Je tiens particulièrement, chers frères, à vous faire comprendre l’hutiliteù de ceite religion, la seule capable de ramener la paix universelle.

La doetrine de cette Religion est reùpandue actuellement sur plusieurs points du globe sous diffeùrentes formes.

Combattre l’hérésie semer parmi les peuples l’a-mour du bien et des creùature, la pratique de la vertu; apprendre à aimer la justice et la résignation, à incul-quer aux humains des conséquenees posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme: tel est l’ideùal du Dai-Dao.

Les Saintes Doctrines des diverses de religions sont mal pratiqueés. L’ordre et la paix du temps jadis s’effacent. La loi morale de l’humanité est trahie.

La Sainte Doctrine du Christianisme ne sert plus qu’à envenimer l’ambition des Forts contre les Faibles et arme les premiers contre les derniers, pour les rireùffleùchits Dieu n’enseigne par le mot.

Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l’humaniteù dans l’amour des creùatures un seul la nation annamite conserve religieusement le culte milleùnaire des morts.

Chers freøres, le Christ miseùricordeaux est venu parmi vous pour vous tracer le chomin du bien. Taâchez de le suivre pour avoir plus tard la paix de l’aâme; avancez chaque jour d’un pas alerte dans l’amour de Dieu. Unissez-vous, aimez-vous les uns les autres, aidez-vous mutuellement, c’est la loi divine.

En ce monde, ou chacun est condamné à subir son purgatoire, si l’on ne pense qu’à ses inteùrêts per-sonnels, si l’on cherche aø semer partout misères et souffrances, on risquera d’être entrainée dans ce torrent infernal òu le méchant va briser sa vie souiller son âme.

—————————d&c—————————
C.I [TĐ.I/ 34]
5.- Thanh thanh Nhựt Nguyệt cửu trùng Thiên,

Hiệu xuất cao nhơn tại nhãn tiền.

Bất quản Hổ tranh thâu Bắc cực,

Chỉ nguy Long đấu đoạt Nam uyên

Sanh tồn cụ pháp vô công trác,

Tử hậu cùng đồ uổng lộ diên

Hữu Đạo, hữu công du tự khả,

Vô công, vô Đạo tổng đồ nhiên.

—————————d&c—————————
D. I

Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đều có để lời tiên tri rằng: “Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn quốc mà đặng làm chủ nền chơn Đạo của Ta”.

6.- Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!

Tiểu quốc tạo khai hội Niết-Bàn

Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo

Hảo phùng Ngọc-Đế ngự trần-gian,

Thi ân, tế chúng thiên tai tận,

Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an

Chí bửu nhơn sanh vô giá định

Năng tri giác thế sắc cao ban.

—————————d&c—————————
E. I

NOEL 1925

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông,

Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.
Muôn kiếp có TA nắm chủ quyền,

Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên

Đạo-mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

—————————d&c—————————
F. I



Saigon, ngày 26 Septembre 1926.

CA, sao con không đợi chết bị đọa luân hồi, tới đây làm gì?

Tại nhơn hữu Đạo đắt chơn Tiên,

Khai hoáng thanh thiên khán sắc thiên, Bảo thế khả quan hành khử hậu

Kỳ duyên khai thiết đáo như tiền

Mạc vong thế hội vô tri Thánh

Khảo cứu đường thi triết thế Hiền

Thần Thánh cư phàm thân vị hão,

Thiêng-Liêng nhứt mạch thoát tiền khiên.

Phò-loan CƯ, TRUNG, TẮC, con phải dạy CA. Ngày sau Thầy sẽ giao trách nhậm lớn lao cho nó như con vậy, nó là Chơn Thánh.

—————————d&c—————————
Hửu-Đạo, ngày 3 Mars 1927.

Lộ khải hành đường chí thánh minh

Thanh biên nhựt tão chiết đơn đình,

Hoành chu giang khách chung thinh đáo

Hữu đặt tuyền quan độ chúng sanh.

Nầy CA, ngày giờ đã trễ rồi! Con liệu đấy.

(Phò loan: DIÊU-SANG).
—————————d&c—————————
Tây-ninh, le 5 Février 1927 (4-1 Đinh Mão)
Thái- Bạch

Hỉ chư Đạo-hữu, chư Đạo-muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp.

Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại!

Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia, cũng đáng đó chút. Lão đã vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch-Ngọc-Kinh, cải cho qua nạn nhơn loại, nhưng Luật Thiên-Điều chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ, ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết! Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng sanh Thánh-Địa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài-gòn, Chợ-lớn Gia-định, Huế, Hải-phòng, Hà-nội thay, thảm! thảm! thảm!...

Cuộc đời càng gẫm thấy càng cay,

Ngặt nỗi Thiên cơ chẳng dám bày.

Rắn núp dưới hang coi ngựa chạy,

Khỉ ngồi trên ngọn ngó gà bay.

Đông Tây chộp rộp Trời thay xác,

Nam Bắc ê hề đất chở thây.

Nhơn vật mười phần hao tám chín,

Thần Tiên thấy vậy rất châu mày.

—————————d&c—————————
Mỹ-Phong, Mai 1927

Thầy sai ông TRUNG đem cặp đồng loan DIÊU SANG xuống nhà tôi giáng dạy, Phật Bà và Quan-Thánh cũng cho thi, và Thầy phong chức Phối-Sư phái Thái, dạy phải may Thiên-phục y như THƠ.

—————————d&c—————————

Cholon, Juillet 1927

Đêm ấy có Đàn đang trấn thần áo mão cho nhiều chức sắc tại nhà ông TRUNG, nên Đức Lý giáng dạy như sau nầy:


THÁI-Bạch phụng thừa Ngọc sắc ban

CA ngâm nhứt pháp triệu chư Thần,

THANH tân thiên sắc Quỳnh bào thủ,

Tịch-Đạo Ca Thanh sắc phục tân.

(Phò loan: HẬU-ĐỨC).

Hai vị nầy nói: “Từ khai Đạo đến giờ, không có vị chức sắc nào trấn thần áo mão mà có được tặng thi như vầy”.

—————————d&c—————————



III.

ĐẠO CHINH NGHIÊNG

Bất tà dâm, bất sát sanh, bất tửu nhục, bất đạo tặc.

Thầy phán rằng: Kỳ nầy Thầy không có giao Thánh-giáo cho tay phàm, vì Đạo Thầy qui Tam-Giáo, nên Thầy cho Tam-Trấn xuống trước đặng mở đường dẫn lối:

ª Đức Lý-Thái-Bạch — Đạo Tiên.

ª Đức Quan-thế-Âm bồ tát — Đạo Phật.

ª Đức Quan Thánh Đế Quân — Đạo Nho.

Tam trấn cũng hết lòng dìu dắt, khuyên lơn; nhưng vì chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài khó kềm chế: mấy vị bẩn-chật thì tài chánh bất minh, mấy vị giàu có thì có vọng tâm khác. Cho nên, Đức Lý-Đại-Tiên Giáo-Tông dạy làm Chương-trình lập hiến đặng sắp đặt và giữ trật tự trong Tòa-Thánh, nhưng Ngài Quyền Giáo-Tông có độc-quyền chế cải bày ra quê-lợi đặng cất Thánh-Tòa, rồi khuyên chúng sanh hãy bỏ đời theo Đạo. Vì vậy, mà nhiều sự tệ xảy ra, nhơn sanh chán ngán.

Kế, ông Cao-Quỳnh-Cư liễu Đạo, thì cặp phò loan thứ nhứt còn một mình ông Tắc làm chủ Hiệp-Thiên-Đài, mà ông không dùng cặp phò loan thứ nhì (Hậu-Đức), ông lại bắt ông Diêu trong cặp phò loan số ba (Sang-Diêu) ngồi chấp cơ với ông. Vì vậy, mà có nhiều bài chấp cơ của Tắc-Diêu không thiệt, nên trong 12 vị Hiệp-Thiên-Đài thì có 9-10 vị không nhìn nhận, mới cắt-cớ nên Đạo phải chinh nghiêng.

Nhiều cái điềm xấu, như: quả Càn-Khôn bị cháy, cốt Phật Thích Ca khi không mà ngã, Hiệp-Thiên-Đài xiêu sập… v…v …

Nhưng mấy ông cũng chẳng sửa cải.

(1) Đó là hai chữ “chơn tuyên”, nghĩa là: Chơn-Lý Đạo sẽ tuyên truyền ra cho người đặng biết. Lời của Đức CQ. Hiệp-Thiên-Đài Ngọc-Chơn-Long.
—————————d&c—————————

Tây-Ninh, ngày 5 tháng 4 năm 1928.

“TRUNG, THƠ… Đạo chẳng kíp thì chầy sẽ thành ra một mối hàng mà mỗi người trong Đạo sau khi giành giựt cắn xé nhau thì chia phân tan tành manh múng, để một trò cười về sau đó, ấy là tại nơi đâu? Người hành Đạo sẽ chẳng đủ sức chế cải, kẻ tự cao, luống chiều vì cầu danh nghịch tư cách đối cách đối đãi với thế tình, gây ác cảm mà tạo thành thù oán.

Hai đứa phải biết chỗ yếu nhược của Đạo nơi đó mà kiếm phương tìm chước lập công hòa-hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải nền Đạo cho chóng, làm sao cho mối đạo hữu các con đều ngó về Tòa-Thánh mà xưng ân huệ của mỗi con có trách nhậm xứng đáng, làm sao cho dứt mối hiềm thù riêng của mỗi đứa, hiệp đồng trí mà làm cho người ngoài dòm vào chẳng khinh nhạo mối Đạo quí quá và thảy sùng bái cử chỉ cao thượng của các con. Chừng ấy các con không mạnh cũng ra mạnh, không đông cũng nên đông, mà việc phổ độ nhơn sanh chẳng còn điều chi trắc trở.

Đạo trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, mà làm cho mối Đạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Đạo trọn thành nơi đây? Chừng nào Đạo chuyển cho ngoại quốc? Trong còn mơ màng như người say chưa tỉnh, thì ngoài thế nào được đem mà gieo lần ra. Các con nên biết xưa những chi mà trái cả nhơn tâm thì khó bền khó vững. Chánh-sách cọng hòa êm tịnh là chánh sách của các con đặng dùng lập Đạo mà thôi. Kiêu hãnh, thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt đè ép, biết mình mà chẳng năng biết người, hay ỷ sức mà chẳng lo xem thời thế, chẳng chế phục nhơn tâm, chẳng biết dụng khiêm từ mà đãi khách, làm những nết của Vương-Bá xưa dùng mà tan tành võ-trụ đó. Nầy các con muốn lập một Đạo chẳng khác chi lập một nước; phận sự lại còn khó khăn hơn nữa, liệu mà sửa cải, liệu mà điều đình, mới có thế chống ngăn với sự tàn bại sắp đến, cho nên Đạo chẳng xa? Nhưng hai con muốn được ra công kềm chế mà làm cho Đạo được vững, người được hòa, tâm được hiệp, ngoài được mạnh, trong được thung dung, giống quí mầu, thì công ấy chẳng chi sánh được”.

—————————d&c—————————

Tây-ninh, ngày 26 tháng 7 năm 1928.

Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy như sau nầy:

“Từ Lão lãnh trách nhậm Giáo-Tông kể ra thì chưa đặng một mảy chi kết quả cho Đạo, mà lại còn mang lời nầy tiếng nọ. Vậy Lão xin nhường ngôi Giáo-Tông lại cho Đạo.

Hiền hữu Thượng-Trung-Nhựt với Lão chẳng xa lạ chi, vậy Lão xin hỏi một điều: nếu Đạo một may nghiêng ngửa thì danh giá của Hiền-hữu và của Lão đây ra thế nào?

Hiền-hữu đừng quá khiêm, dầu ngu thế nào cũng biết Đạo mà làm chớ, gọi là: u-ám không rõ Đạo-Lý. Đã hai năm mà gọi rằng chưa rõ; vậy Lão hỏi chư Đạo-hữu đây, có biết Chơn-Lý của Đạo là gì chăng? Lão muốn cho Hiền-hữu Thái-CA-Thanh làm một Chương-Trình Lập-hiến (Chương-Trình Cửu-Viện) mà đệ lên cho Hội-Thánh nghị-định hành Đạo cho hoàn tất. Còn Thượng-hiền-hữu lo tịnh-dưỡng tâm-thần đặng chờ địa-vị xứng đáng. Hiền-hữu phải ráng chỉnh-đốn trong Đạo cho hết lộn xộn về những việc bề ngoài của thế-tình, đừng để mang điều quái-dị thì có khi nhục đến danh Đạo… Cứ chiều lòng công-chúng thì nên mỗi việc. Lão thường dặn phải chung trí mà làm, thì không ai nói đặng”./-

—————————d&c—————————

Tây-ninh, ngày 8 tháng 5 năm 1930.

Thầy, các con,

Thầy thấy phần nhiều, tu cũng muốn tu, mà thế-tục cũng không muốn chừa bỏ, thế-tục là nét dìu dắt cho mất ánh Thiêng-Liêng; phải lấy nghị-lực cang-tâm kềm chế cái dục-vọng mới là chẳng uổng công-phu hành Đạo cho. Áo dà cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh, để cho họ biết mình là hướng Đạo, đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng lộn vào, thấy bạc rơi chẳng bỏ, lợi múng cũng chẳng chừa, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh-điện mà hơi tà còn phưởng phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, đội lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lổng túi thâu đầy, toan làm thầy lũ dại.

Ôi, lốt Đạo, lốt Đạo…

Thầy buồn cho trẻ dại chẳng biết làm sao mà đem Thánh-Giáo vào tay chúng nó đặng, Thầy nhớ xưa kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhục mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giạu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình được. Chớ có đâu lấy của lẫn nhau, mượn quyền xô Đức, kẻ chơn-thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm rúm mảng hơi tà, lạy đùa nói rằng thờ Chánh-Giáo.

Thầy hỏi: vậy chớ ai chứng cho?

Các chức-sắc đều Lập Hiến Cửu viện đều lui lần lần về nhà hết; sau nữa Đức Lý Đại Tiên giáng đàn cho một bài Tiên tri rằng: Tổ Đình Tây Vức (Tòa-Thánh Tây-ninh) sẽ là một ổ quỉ.

—————————d&c—————————



IV.

THẦY DAY CÁN BÚT VỀ CAO-THIÊN ĐÀN

(RẠCH GIÁ)

Vì nhơn sanh đồ thán nên Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-giá), số người nhập môn tại Tây-ninh có phân nửa triệu người, kẻ đi hầu Đàn Đại Lễ có chừng 9-10 ngàn người; tại Thánh-Thất Mỹ-tho mới Lạc-thành Tết năm Thìn (1928), số nhập môn có 50.000 người, đi hầu Đàn có chừng 2-3 ngàn người, theo gần kịp Thánh-Thất Vũng-Liêm của bà Lâm-Thị-Thanh, là một Thánh-Thất đông hơn hết.

Năm Ngọ (1930), Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-giá), có cho ra cuốn kinh “Tu-Chơn Thiệp-Khuyết”:

NGỌC-Lịnh ban-hành khải Cửu-Cung,

HOÀNG-Môn Xuân sắc tượng ung-dung,

THƯỢNG-hành Hạ-hiệu đô công-quả,

ĐẾ-Đạo hoằng khai chiếm thượng phong.

1.- Cung Bạch-Ngọc ngự-lâm bửu tọa,

Thọ chư Thần triều-hạ đã yên;

Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,

Trước xem Tam-Giáo cháu Tiên, con Rồng.

2.- Đã đôi kiếp dày công, nhọc sức,

Dạy chúng-sanh kỉnh Phật thờ Trời;

Thương thay cũng tại số người,

Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời quỉ-vương.

3.- Lòng chẳng kể cang-thường là Đạo,

Dạ hằng lo hung-bạo làm đầu;

Thấy vầy, Thầy phải nghĩ sâu,

Tam-Kỳ Phổ-Độ Nam Châu phen nầy.

4.- Lời Thầy phán, rẽ mây vén ngút,

Kinh Thầy ban, chạm ngọc khảm vàng;

Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,

Khuyên con tạc dạ, ghi xương chớ rời.

5.- Sách chép chữ: khôi khôi thiên-võng,

Đời ghi câu: lộng lộng lưới giăng;

Nhặt thưa, mau chậm, cân-phân,

Mựa rằng sơ-sót, mắt Thần không sai.

6.- Thầy đã dạy nhiều bài vàng-đá,

Con nỡ đành chẳng dạ sắt-đinh;

Con hư, Thầy phụ chẳng đành,

Con nên, Thầy được phỉ tình ước-ao.

7.- Đời hằng nói: Trời cao có mắt,

Sách thường biên: Thái nhứt vô hình;

Minh-mông, đồ-sộ, rộng-thinh,

Mà soi-xét đủ tình-hình thế-gian.

8.- Đây giáng bút ít hàng vắn-tắt,

Đặng trao lời vuông-tấc nhiệm-mầu;

Chớ rằng: chẳng tiếng cao-sâu,

Khuyên thường chử dạ, mựa hầu sai-ngoa.

9.- Ơn cúc-dục: công cha, nghĩa mẹ,

Đức sanh-thành: nuôi bé, dạy khôn;

Tục rằng: cây cội nước nguồn,

Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.

10.- Cùng bạn-tác: không dua, không nịnh,

Với anh em: đừng phỉnh, đừng phờ;

Thấy người quyền quí đừng mơ,

Gặp người hoạn nạn chớ lơ-lảng lòng.

11.- Đạo quân-tử, vợ chồng gây mối,

Mối cang-thường, dòng-dõi trổ nên;

Một lòng, một dạ vững-bền,

Sớm-khuya dạy-bảo, nhủ-khuyên ngọt-ngào.

12.- Tình máu-mủ, đồng-bào cốt-nhục,

Cũng rún nhau, một cục xắn-chia;

Đừng toan chước quỉ phân-lìa,

Ở cho hòa-nhã tiếng bia danh đồn.

13.- Đạo thần-tử, lo tròn phận-sự,

Nghĩa tôi-con, nắm giữ thân-danh;

Sao cho công-toại, danh-thành,

Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.

14.- Cân Tạo-Hóa nhiều bề mắc-mỏ,

Máy Kiền-Khôn hiếm chỗ cam-go;

Nước đời sâu chống, cạn dò,

Đừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.

15.- Thần, Tiên đã bày lời trung-chánh,

Thánh, Hiền còn thêm gánh nghĩa-nhơn;

Thương đời chẳng biết công ơn,

Chê-bai thấp-thỏi, chờn-vờn cầu cao.

16.- Muốn đặng Ngọc, thì vào non thẳm,

Muốn tìm Vàng, phải ngấm biển sâu;

Muốn cho phú-quí, công-hầu,

Thì tua gắng chí dãi-dầu tuyết sương.

17.- Ai cũng muốn Tây-Phương lạy Phật,

Sao không lo Thánh-Thất chầu Thầy;

Vì con Thầy mới đến đây,

Cạn phân lợi-hại, tỏ-bày thiệt-hơn.

18.- Phải: tích đức, tu-nhơn làm trước,

Lo: tu-thân, tác phước cho cần;

Trên đầu có Thánh, có Thần,

Có Trời, có Phật cầm cân chẳng lầm.

19.- Đừng tưởng chỗ tối-tâm chẳng thấy,

Chớ tưởng điều phải-quấy không soi;

Có câu: “khuynh-phúc, tài-bồi”

Nước sông rông kém, máy Trời vần-xây.

20.- Vầng Nhựt-Nguyệt đêm-ngày soi-xét,

Lẽ Âm-Dương hàn-nhiệt giao-thông;

Có câu: “Thiên-Địa chí-công”,

Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa.

21.- Đừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,

Chớ tưởng dùng sức mạnh qua Trời;

Đáng thương, mà cũng đáng cười,

Vì lòng kiêu-ngạo dể-ngươi Cao-Dày.

22.- Lòng bất-nhẫn thêm bày ít đoạn,

Dạ Từ-Bi phụ giảng vài bài;

Khuyên con tạc dạ chớ sai,

Khuyên con chớ thấy dông-dài bỏ qua.

23.- Nên xa tránh dâm-tà, sắc-dục,

Hư thân danh, điếm-nhục Tổ-Tông;

Hại nầy, thiệt hại vô cùng,

Phật, Trời chẳng chút thứ-dung tội nầy.

24.- Ví kiếp trước, dẫy-đầy Âm-chất,

Sa mê dâm, Phước-Đức tiêu-mòn;

Hại mình, hại vợ, hại con,

Hại luôn sự-nghiệp, hại dồn đời sau.

25.- Chước quỉ-quái, lòng sâu dạ độc,

Kế tinh-yêu, đục nước béo cò:

Lập mưu thả lưới, giăng dò,

Hại người lương-thiện, ấm no thân mình.

26.- Người cậy thế khôn-lanh, xảo-trá,

Trời dành phương nhơn-quả, trả vay;

Phủi tay chẳng kíp thì chầy,

Reo cười chưa thỏa, xin mày không cơm.

27.- Đành búng-rảy ngày đơm, tháng giỗ,

Nỡ phụ-phàng chim Tổ, người Tông;

Ỷ mình đủ cánh, đủ lông,

Quên ơn cha mẹ, phủi công ông bà.

28.- Tội bất-hiếu, phui-pha đâu có,

Chữ vô-tư, tỏ-rõ phải không;

Kiếm đao, địa-ngục song song,

Đem vào trước dạy, vỡ lòng phanh gan.

29.- Chủ lường-gạt, buôn gian bán lận,

Tớ gian-tham, lời chận lỗ thêm;

Miếng-môi chuốt ngót cho êm,

Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.

30.- Phường sâu-độc, toan phòng ngọt mật,

Tánh cưu-mang, nhử bắt giết ruồi;

Mưu sâu gẫm lại, than ôi!

Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay!

31.- Ngày chí tối, phô-bày nanh-vút,

Sớm cùng trưa, xúi-giục kiện-thưa;

Xiết bao kế lận, mưu lừa,

Ôm gồm hai phía, đỏng-đưa đôi đàng.

32.- Cậy quyền-thế, tham-quan ô-lại,

Giả xưng-hô, quí-phái cao-môn;

Líu-lo ba tấc lưỡi dòn,

Đã thâu của báu, lại bòn đồ xưa.

33.- Giọt thán-oan như mưa thấy thảm,

Tiếng bi-ai dường sấm bên tai;

Sống cho vạn ách, thiên tai,

Thác cho kiếp kiếp đầu-thai bồi-thường.

34.- Dối Thần Phật gạt lường tế-độ,

Phỉnh chúng-sanh tu-bổ chùa-chiền;

Trọng Tăng, kỉnh Phật thiêng-liêng,

Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.

35.- Nghề đồng-cốt, khinh-khi Tiên, Bụt;

Nghiệp bóng-chàng, đàng-đột hư-vô;

Xác Ông, xác Cậu, xác Cô,

Dưng chay, cúng mặn, thế đồ, vớt vong.

36.- Chẳng hiểu chữ: sắc không, không sắc,

Chẳng thông câu: không có, có không.

Giam vào vô-để lao-lồng,

Chờ ngày: Phán-Đoán Đại-Đồng Thế-Gian.

37.- Kẻ bợ-đỡ, mua quan, bán bạn,

Tánh nịnh lùa, giả dạng cầu thân;

Cũng phường mọt nước, sâu dân,

Phú cho địa-ngục trầm-luân giam-cầm.

38.- Phô những lũ tìm tâm ích-kỷ,

Khắp các phường tính kế hại người;

Hại người, mình lại vui cười,

Hỏa-khanh địa-ngục, đốt đời chẳng dung.

39.- Răn đệ-tử: chớ dùng rượu thịt,

Khuyên chúng-sanh: ráng ít chơi-bời;

Sắc, tài, tửu, khí hao hơi,

Gắng công Tu-Niệm thờ Trời, tụng Kinh.

40.- Lời Thầy phán, phải tin, phải tưởng,

Tiếng Thầy răn, chớ cượng, chớ sai;

Tu cho rạng tiếng Cao-Đài:

Cha hiền, con thảo, trai ngay, gái lành.

41.- Trối những kẻ khinh danh Đạo Cả,

Thây các phường thóa mạ khi Thầy;

Khoe-khoan, kiêu-ngạo, đặt bày,

Đền xong tội thế, đến ngày gặp TA.

42.- Điều biếng nhác, bởi già nghiệp chướng,

Tánh trù trì, khó hưởng thanh nhàn.

Khuyên con vững dạ bền gan,

Lòng lo tu-niệm, Thiên-Đàng mau lên.

43.- Mảng những ước thành Tiên, thành Thánh,

Mà quên lo Tu Tánh, Tu Thân;

Tu cho bồi đắp thiện căn,

Tu cho Trung, Hiếu, Nghĩa, Nhân vẹn-tuyền.

44.- Tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ,

Tu là cần phổ-độ chúng-sanh;

Cầu cho cải dữ về lành,

Cầu cho đất-nước thái-bình muôn năm.

45.- Tu cho được Thần khâm, quỉ phục,

Tu cho nên thoát tục, siêu phàm;

Công danh, quyền quí, tước hàm,

Mây tan, nước chảy mà ham nỗi gì?

46.- Thế thường nói: Tu chi cho nhọc,

Để mà lo: tước lộc, công hầu;

Sao không suy trước, nghiệm sau,

Tiền-căn, hậu-quả, bởi sao được vầy?

47.- Phân năng bón, thì cây mới tốt,

Rễ thường tươi, thì đọt mới xanh;

Muốn cho cả cội, sung nhành,

Tu Hành lo trước, sau đành thảnh thơi.

48.- Thầy thương xót, ngùi ngùi kẻ dại,

Muốn thành công, mà lại ngao du;

Phật mang tám nạn cũng Tu,

Thầy còn muôn kiếp công-phu dãi dầu.

49.- Ai dẫu được công hầu, khanh tướng,

Mà không lo tiếp dưỡng tài bồi;

Gốc cây, sùng đục đã rồi,

Khôn trông nứt mụt, nảy chồi, đơm bông.

50.- Tu Phước Đức bền lòng cho lắm,

Tên quỉ vương hay nhắm người Tu;

Mũi tên đã độc, lại mau,

Ghim vào một mũi, khó hầu gỡ ra.

51.- Tên nó sắm: những là rượu bọt,

Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng;

Muôn ngàn tên độc vô cùng,

Vương nhằm một mũi, thì không còn Hồn.

52.- Tu thì chớ bôn chôn, nóng nảy,

Tu thì cho quấy-phải phân-minh:

Chánh-tà, chơn-ngụy được rành,

Phật, Trời mới chứng cho mình rằng Tu.

53.- Tu cho được: Phụ từ, Tử hiếu,

Tu cho thành: Huynh hữu, Đệ cung;

Gái Tu: Tứ Đức, Tam Tùng,

Trai Tu: Nhơn, Nghĩa, Hiếu, Trung làm đầu.

54.- Thế tưởng vậy là Tu Nhơn-Đạo,

Nào hay rằng: Thiên-Đạo bởi đây;

Chẳng lo Nhơn-Đạo cho dày,

Mong thành Thiên-Đạo mặc-may làm gì.

55.- Phật đã dạy: “Tam Qui, Ngũ Giới”,

Đời chẳng tuân, để hại Nguơn-Thần;

Bởi thương nên mới phân-trần,

Vì thương nên mới ân-cần nhủ-khuyên.

56.- Một khuyên phải -kiền-thiền -mộ Đạo,

Hai tuân lời Tam-Giáo Thánh-Nhơn:

Đạo là Chí Chánh, Chí Chơn,

Những lời Thánh-Huấn chạm xương, ghi lòng.

57.- Ba khuyên nhớ Tổ Tông Công Đức,



Bốn lo Tu đúng bực cang-thường:

Cha sanh, Thầy dạy kỷ-cương,

Anh em bạn-tác, náu nương vợ chồng.

58.- Năm khuyên nhớ kẻ nông công khó,



Sáu xót thương tằm-phụ nhọc nhằn:

Cày sâu, cấy cạn, bón phân,

Làm nên tơ chỉ, trăm phần lao đao.

59.- Bảy liên lạc đồng bào, huynh đệ,



Tám khuyên đừng xua-mỵ quyền-môn,

Sao cho tiếng ngợi, danh đồn,

Đáng trang Đạo-Đức phải tôn, phải vì.

60.- Chín khuyên chớ khinh-khi cô-quả,



Mười khuyên tua hỉ-xả lỗi người;

Khuyên đừng biết giận hờn ai,

Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.

61.- Được vậy, mới gọi trang Tu Tánh,

Tánh Tu rồi, mới định Tu Tâm;

Càng Tu, càng thấy cao thâm,

Càng Tu, càng thấy sự lầm lạc xưa.

62.- Biết lầm lỗi, thì chừa cho gấp,

Đặng mau lo bồi đắp cội lành;

Như vầy: mới gọi Tu-Hành,

Như vầy: mới được chứng-minh Bồ-Đề.

63.- Khuyên con phải kiêng-dè cho lắm,



Mười lời khuyên như tẩm Cam-Lồ;

Đêm ngày dầu tụng Nam-Mô,

Mà không noi giữ nhành khô, rễ còi.

64.- Mừng con đặng có mòi tấn-phát,

Rưới cho con nước mát mùi thơm;

Bốn mùa, hoa nở, trái đơm,

Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào.

KỆ VIẾT:


I.— Giáng Cơ chỉ rõ Máy Kiền-Khôn,

Ghi chép vài trang sách Thánh-Ngôn;

Luân-Lý, Cang-Thường nên cả cội,

Nghĩa, Nhơn, Trung, Hiếu vốn sâu nguồn;

Thành Chơn Phước bởi công Vô-Lượng,

Đắc Đạo ơn nhờ Đức-Chí-Tôn;

Khuyên nhủ các con tua gắng chí,

Tam-Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.


II.— Tiếng bia đồn đẻ ức, muôn năm,

Khuyên thế đừng Tu độc hiểm tâm;

Thầm tối mưu gài chông lễu-lễu,

Cao-Xanh lưới bủa dạng tâm-tâm;

Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,

Quỉ-tốt nào kiêng bực phẩm-hàm;

Thiện-ác đáo-đầu vay có trả,

Hoàng-Thiên hữu nhãn chắc không lầm.

III.— Chắc không lầm-lỗi tiếng Mười Khuyên,

Thì được tên đề bản Địa-Tiên;

Muốn hưởng lâu dài nền hậu-quả,

Phải lo bồi đắp cảnh tiền-duyên;

Làm lành lánh dữ, câu thành ngữ,

Tốt đất sung nhành, lẽ tự nhiên;

Chí dốc siêu phàm lên cõi Thánh,

Phải lo vun tưới miếng Tâm-Điền.


Các con! Thầy dạy bài “Tu Chơn Thiệp Khuyết” nầy là chỉ: Đường Ngay, Lẽ Chánh cho các con đi; nẻo vạy, thói tà cho các con sửa.
Trong lúc Thầy truyền Đạo đây, thì có Chư Thần, Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh; lại có Văn-Xương Đế-Quân ghi chép vào Kim-Thơ Ngọc-Sách, hầu để vào “Tàng-Kinh Bửu-Viện”, cộng cả thảy là 64 vé, 256 câu, 1960 chữ.
Ba bài “Kệ”, các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm truyền tụng chớ khá bỏ qua; vì tụng Kinh nầy đây thì “Tứ-Trị Công-Tào Sứ-Giả” thảy hằng nghe, mà biên chép công-quả.
Thầy dạy Bổn-Mạng Nguơn-Thần của mỗi con, xét coi trong lúc rảnh-rang có trau giồi Đạo-Đức như lời Thầy phán chăng? Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.

Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,

Vàng Ngọc gìn trau, chớ bỏ qua;

Cung-kỉnh, ấy là nền Đạo-Đức,

Kiêu-căng, vốn thiệt gốc yêu-tà;

Nguơn-Thần chiếu mạng người trung-chánh,

Nghiệp-chướng trì chơn đứa xảo-ngoa;

Đừng tưởng Trời cao, mà giả-dối,

Mắt Thần như chớp, khó phui-pha.
Các con! Như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi Đạo-Lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài “Thiệp Khuyết” nầy:

Khuyên đời bỏ dữ, đặng theo lành,

Ấy cũng là điều giúp chúng-sanh;

Tiên-tục, thấp-cao, lời giác-đác,

Nên-hư chỉ rõ, tiếng đành-rành;

Thiện-duyên yếu mối, năng thưa-thớt,

Nghiệp-chướng già cây, khó rắp-ranh;

Vững lái êm chèo thuyền tế-độ,

Đưa người đến bến mựa cành nanh. (Thăng)

----------------------------------------------------

Bài “Thiệp Khuyết” nầy là bài giáng bút tại “Cao-Thiên-Đàn” (Thánh-Thất Rạch-Giá, Kiên-giang), đêm 24 tháng 3 năm Canh-Ngũ (22 Avril 1930).

—————————d&c—————————

Đầu năm Tân-Vì (1931), Đức Lý Đại Tiên giáng đàn tại Mỹ-tho ra bài “Chánh-Tà Yếu-Lý”.
Bài Thánh-Giáo giáng bút tại nhà ông Nguyễn-văn-Ca (Đồng-tử Chơn-Tâm chấp-bút) đêm mồng 7 rạng mồng 8, 23 giờ, tháng Giêng năm Tân-Vì, trả lời y Sớ mà ông CA dưng ngày mồng Một Tết.

sanh Tâm Tánh ghét gian hùng,

THÁI quá ngày sau khó nổi dung,

BẠCH-Ngọc nỡ nào cho có vít,

GIẢNG-Phân tà-chánh các ngươi chung.

- Nền Đạo hầu nghiêng,

Thói đời thêm mị.

- Lớn mưu mưu, nhỏ kế kế, muốn sao cho chỉ đá hóa vàng;

Trên tính tính, dưới bàn bàn, lo đến đỗi nắn Trời nên vóc.

- Học không lo học,

Danh lại cầu danh.

- Kẻ si mê, phờ phỉnh đã đành,

Người trí thức, dỗ dành đâu được.

- Cạn mưu túng nước, đã bán Trời, còn bịa đặt danh quan;

Cùng thế bít đàng, đành giả Phật, đâu kiêng Luật Thánh.

- Đạo toàn Chơn Chánh,

Nghĩa vẹn Hiếu Trung.

- Lý Nhiệm Mầu người muốn suy cùng,

Lời u ẩn, lòng tua minh kiến.

- Máu tham chẳng biến,

Đường thẳng chẳng theo.

- Thấy con đây khí phách biết điều, đường tà-chánh Thầy nên phân-giáng.


TA vưng lịnh ĐỨC-CHÍ-TÔN cho bài giảng-phân
CHÁNH-TÀ YẾU-LÝ”:
1.- Nhằm cơn mạt kiếp suy vi,

Dị đoan ong dậy, chánh qui gò bằng;

Phe ngoại Đạo tráo căn, trộm kiếp,

Lũ yêu vương thừa dịp lộng quyền;

Kể chi trăm họ đảo điên,

Miễn cho toại được ý riêng của mình.

2.- Trên bia đặt một hình Thượng-Đế,

Dưới tóm thâu hiếm kẻ vuốt nanh;

Chước ma kế quỉ sẵn dành,

Chờ cơn nước bí, cờ dành vào tay.

3.- Sách đã dạy: tôi ngay, con thảo,

Sách nào cho: lòng cáo, dạ muông;

Khen cho lũ chuột, bầy chồn,

Đào hang trổ ngách khoe khôn cậy tài.

4.- Thầy đã mở Cao-Đài Đại-Đạo,

Hiệp Năm nhành như áo có bâu;

Chỉ đàng Chơn Chánh cao sâu,

Dắt đường yếu-lý nhiệm-mầu nên theo.

5.- Hột giống tốt cùng gieo rải-rác,

Nhưng chỗ vầy, chỗ khác không đồng;

Cũng vì tại ở nơi lòng,

Người ham Chơn-Lý, kẻ mong giành quyền.

6.- Quyền tính chước tuyên truyền trần thuyết;

tìm đường tịch-diệt hư-vô.

Chánh-tà, chơn-ngụy lưỡng đồ,

Xem trong hai lẽ mà đo, mà lường.

7.- Quyền, ngày tính thiên phương vạn kế,

Lo sao cho mờ kẻ thấp hèn;

Buôn Trời, bán Phật chẳng kiêng,

Chẳng Thần, chẳng Thánh, chẳng Tiên, chẳng phàm.

8.- thì xét tam tam tiền hậu,

Ngoài vòng Trời còn dấu lẽ chi,

Nào là huyền-diệu ẩn-vi,

Xanh kia dính với mình ni lẽ nào.

9.- Quyền, chẳng kể ồn ào, hỗn tạp,

Miễn sao cho kẻ nạp, người dưng,

Tờ kia giấy nọ tưng bừng,

Nhiều ra rồi lại không ăn, không nhằm.

10.- Trái hẳn với kẻ tầm Chơn-Lý,

Một mối tìm một tý không sai,

Đường Ngay có một, không hai,

Đường Ngay từ thuở Thiên-Khai đến giờ.

11.- Đây TA chỉ sơ sơ một ít,

Đặng biết chừng mục-đích mà phăng:

Đạo là phẳng-lặng, trang-bằng,

Dường như gió tạnh Trời trăng đêm rằm;

12.- Tây-Trúc dạy: “Minh Tâm Kiến Tánh”,

Hàm-Quan khuyên: “Luyện Tánh Tu Tâm”,

Lỗ-Đông: “Dưỡng Tánh Tồn Tâm”,

Da-Tô: “Thượng-Đế tại Tâm” chẳng rời.

13.- Tứ-Đại-Thánh một lời chẳng khác,

Khác tại người xiêu lạc cải-canh;

Đường Ngay chẳng thạo đã đành,

Tâm sanh chưởng chưởng, ma sanh khó gì.

14.- Tìm Đại-Đạo phải suy cho lắm,

Luyện Chơn-Nguơn phải gẫm cho cùng;

Con người chẳng sót mảy lông,

Tịnh-Tâm mình mới khỏi mong xiêu vời.

15.- Người muốn rõ Đạo Trời huyền-diệu,

Thì phải lo chánh-yếu mà tìm;

Lo chi mãn tải huỳnh-kim,

Dựng lầu, xây các cho biềm sắn leo.

16.- Cuộc giả dối tinh yêu, ma quỉ,

Tiếng bọt bèo thô bỉ, vụn vằng;

Đạo là Chí Chánh, Chí Chân,

Người sao để dạ cầm cân so lường.

17.- Thầy hết dạ yêu-thương con dại,

Thầy hết lòng hoài-đoái trẻ ngây;

Khắp cùng Nam, Bắc, Đông, Tây,

Nơi nào Thầy cũng giảng-bày Lẽ Chơn.

18.- Thầy nhìn biết con hơn vàng bạc,

Nơi nơi đều con lạc của Thầy;

Khen ai lớn mật dạn tay,

Rằng: Thầy bỏ đó, nhìn đây cho đành.

19.- Cũng vì bởi đồ danh, trục lợi,

Mới xui nên khinh ngỡi, trọng tài;

Cốt đồng che lấp mắt ai,

Cốt đồng che đặng mắt Trời mảy ru?

20.- Khuyên lớn-nhỏ muốn Tu thành Phật,

Đừng cưu lòng đố-tật Hiền Nhơn;

Ghen tương, kiêu ngạo, khoe khoan,

Tham lam, giả dối, đừng mang vào mình.

21.- Trời lộng lộng, thinh thinh, lẩm rẩm,

Đạo vơi vơi, thẩm thẩm, minh mang;

Muốn cho thông suốt mọi đàng,

Bền lòng kiên nhẫn,chắc gan thử rèn.

22.- Thương những kẻ giá hèn như rác,

Lại làm trò thượng đạt thiện tâm;

Cơ thâm thì họa diệt thâm,

Mình lầm mình chịu, dễ lầm Người sao?

23.- Thân dốt nát mà bao lốt Thánh,

Óc ngu si lại lãnh vai Thần;

Bò vàng gắn điếu làm Lân,

Dở-dang lưu-thủy, phân-vân Phụng-Hoàng.

24.- Muốn hành Đạo, lòng gian phải dẹp,

Muốn người theo, tiếng mép phải chừa;

Đừng lòng kẻ ghét, người ưa,

Đừng ham tiếng bẩm, lời thưa với mình.

25.- Mình muốn được rõ Minh Chánh Lý,

Ta với Người một thể với nhau;

Có đâu đem dạ cơ cầu,

Ngăn đường, lấp ngõ đặng thâu giả-quyền.

26.- Biết Lẽ-Phải thì kiêng mới phải,

Nghe Điều-Hay thì lạy mới hay;

Khuyên đừng ỷ thế cậy tài,

Thấy điều trái ý thì bài-bác ra.

27.- Đành chẳng quản gần xa thô bỉ,

Thiệt không màng miệng thế đồn vang;

Khéo làm như bọn mua giàn,

Mượn màu son phấn khoe giàn kiếm ăn.

28.- Tua un-đúc tinh-thần phát-triển,

Khá giữ-gìn Điển-Tuyến quang-minh;

Mấy từng đồ-sộ Cao-Xanh,

Đương liền như lưới với mình mình đây.

29.- Mình sung Điển như cây sung tược,

Tược tốt tươi nhờ nước mát yêm;

Bông hoa ngày nảy nở thêm,

Lá sum-sê phủ, nhánh dìm-già đơm.

30.- Thần nuôi Đạo như cơm nuôi vóc,

Đạo nuôi Thần như lộc nuôi thân;

Thần mà tinh-khiết muôn phần,

Càng vui càng vẻ Đạo càng được khen.
Câu chuyện còn dài, song Chơn-Tâm đã yếu, không hứng chịu cái Điển-Quang lâu đặng. Ta cậy tay Tường-Khánh mà tiếp bút. Muốn cho đủ bài giảng phân “Chánh-Tà Yếu-Lý” thì do nơi Kiên-Giang.

Tới đây xin bế-mạc.

Thầy có bảo Ta trao hai bức thơ cho Ca, nhớ trao lại cho TâmVịnh.
NGỌC quang đạo mão ưởng y thường,

HOÀNG-Điện trang-nghiêm dụng biểu-chương,

THƯỢNG đạt vĩ-nhơn vô hậu cố,

ĐẾ hoài chiếu giám nhĩ tâm trường”.


Ấy là bức thơ cho Nguyễn-Tâm.

Đây là bức thơ cho Nguyễn-Vịnh:

“NGỌC thố thu hào bút dĩ hao,

HOÀNG-Ân cố vọng nhĩ đồng-bào,

THƯỢNG thương phúc tải vô thinh xú,

ĐẾ bộ vân tiêu nhứt vỏ mao”.


Ca, Ta cho ngươi một bài Kệ, cứ theo đó mà hành-động, lo chi Đạo không mở-mang theo Chơn-Lý.
“Khá khá song còn thiếu cánh vây,

Bài dài sao chẳng thốt cho hay,

Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng,

Kinh địa trao lời rạng vẻ mây”.

—————————d&c—————————
Cao-Thiên-Đàn Rạch-Giá (Kiên-Giang),

12 giờ đêm mồng 7 tháng Giêng năm Tân-Vì (1931).

(Đồng-tử Tường-Khánh chấp-bút):


suy-xét rộng khắp Năm Châu,

BẠCH sắc kim-liên chứng Đạo Mầu,

GIÁO giảng chúng-sanh tầm Chánh-Giác,

TÔNG-Kinh diệu-phẩm nghĩa cao sâu.
Đồng-tử Chơn-Tâm vì còn nhỏ (16 tuổi), xứ lạ phần mệt mỏi, nên không thế nào chịu hứng Điển-Quang của TA. Bởi vậy, TA truyền Điển sang cho Tường-Khánh đặng cho tiếp bài phân-giải “Chánh-Tà Yếu-Lý” của TA cho trọn.

TA có cho bài thi ngụ-ngôn mà chúng nó không hiểu, các ngươi hãy kiếm mà giải.

“Khá khá song còn thiếu cánh vây,

Bài dài sao chẳng thốt cho hay,

Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng,

Kinh địa trao lời rạng vẻ mây”.


TA cho nối bài phân-giải “Chánh-Tà Yếu-Lý”:
31.- Đừng làm cách đê hèn, khiếp nhược,

Mắt lim-dim giả chước truyền thần;

Mơ-màng bể ái nguồn ân,

Thay lê tráo lý, rộn-xăng vụng-về.

32.- Người muốn thoát bến mê bể khổ,

Trông cậy Thầy chỉ chỗ dẫn đường;

Thầy mừng hết dạ yêu thương,

Đèn soi đêm tối, lửa vàng đêm đông.

33.- Đâu mượn tiếng đem lòng xảo quyệt,

Giả danh Thầy chẳng biết tới ai;

Thầy nhìn con cả gái trai,

Côn trùng, điểu thú, căn cai cũng nhìn.

34.- Đạo bổn thể hư-linh bất mậu,

Vận Nguơn-Thần sung thấu Tam-Quang;

Giao thông trên dưới huyền hoàn,

Bốn phương, tám hướng dọc ngang không cùng.

35.- Khi phóng-xuất mãn sung võ-trụ,

Lúc bế-tàn thối ngụ nơi Tâm;

Ngươn-Thần thận độc phương châm,

Chơn đi giá mỏng, tay cầm lưu ly.

36.- Mắt chưa thấy hào ly Thiên-Đạo,

Tai chưa nghe báng trảo Thần phù;

Cống hò xê liếu rằng Tu,

Đứa đui lại dắt thằng mù đi đêm.

37.- Khinh phép Nước bày điềm mị-mộng,

Mượn danh Thầy muốn lộng quyền cao;

Đất bằng lại nổi ba-đào,

Chẳng thương xót đến đồng-bào, chúng-sanh.

38.- Nguồn Đạo mở trong-xanh như suối,

Luật Đạo ban phao nổi như cồn;

Trách ai đem Đạo đi chôn,

Đóng vai diễn lớp giống tuồng cải-lương.

39.- Người giữ phép dẫn đường vi phép,

Kẻ phi quan mở dịp giả quan;

Học đòi theo thể bóng chàng,

Mượn Thầy đặng lập một đoàn đi buôn.

40.- Đạo là Đạo như khuôn đã đúc,

Trời là Trời, tà khúc chẳng dung;

Dầu ai sai lạc đến cùng,

Cải tà qui chánh còn trông ơn Thầy.

41.- Thầy Quảng-Đại, Cao-Dày sông biển,

Con lỗi-lầm, lười-biếng, dại-khờ;

Thương con nên chỉ Huyền-Cơ,

Cho con biết bến, biết bờ mà theo.

42.- Thần Đạo Học vừa gieo Tánh Mạng,

Luyện Linh-Hồn vượt khoảng từng mây;

Hồn con là Ngọc của Thầy,

Hồn con báu-lạ xưa-nay còn hoài.

43.- Thân-Thể với Hình-Hài vật-chất,

Có Giác-Hồn Ba Bực tùy thân:



Thần-Hồn khôn dại không chừng,

Theo màu thuốc nhuộm, theo lằn sóng đưa.

44.- Noi Chánh-Lý ngăn ngừa nẻo vạy,

Chính Anh-Hồn phải-quấy phân-minh;

Hễ người cốt-cách được thanh,

Thần-Hồn ít lúc cải-canh Anh-Hồn.

45.- Kẻ tiền-kiếp đeo còn nghiệp cốt,

Nặng-nhẹ mang những lốt thú cầm;

Thần-Hồn nhiều-ít giả-tâm,

Anh-Hồn khó nổi việc chăm-nom liền.

46.- Linh-Hồn vốn thiêng-liêng, huợt-bát,

Chính là ngôi Bổn-Giác Thầy ban;

Gìn cho trong sạch hoàn toàn,

Thần dày Đạo Đức, Linh càng phẩm cao.

47.- Giữ trong sạch, đừng hao Tinh, Khí,

Nguơn-Thần đừng đắm-lụy trần-ai;

Trong ngần, chẳng chút lợt phai,

Có ngày chơn bước đến đài Cao-Xanh.

48.- Phải ráng nhớ trong mình sẵn đủ

Tánh Linh Thầy ban phú từ xưa;

Trăm điều vật-dục phải chừa,

Đừng tham danh-lợi, chớ ưa sang-giàu.

49.- Chữ Chí Thiện là đầu trăm việc,

Lẽ chánh-tà phải quyết, chớ từ;

Thấy điều gian-trá thì trừ,

Đừng cho mình vấy tiếng hư theo người.
KỆ RẰNG:

Đạo Thầy Chánh Đại lại Quang Minh,

Đâu phải tuồng như kẻ thế-tình,

Khuyên khắp chúng-sanh mau tỉnh giấc,

Đài Cao cửa rộng mở thinh-thinh.

(Thăng)
—————————d&c—————————



THÁNH-HUẤN CỦA THÁNH-THẤT KIÊN-GIANG

NHỊ-THẬP-THỦ LIÊN-HƯỜN

NGỌC ngà châu báu của Trời ban,

HOÀNG cảnh sao xem thấy nhộn nhàng,

THƯỢNG phẩm cung tuờng ai dễ thấu,

ĐẾ quyền đâu sái mảy trần-gian.

I.

Các con lớn nhỏ thấy càng thương,

Lắc lở gần đi muốn lạc đường,

Tin cậy lời ma sao sốt sắng,

Ước ao kinh Thánh lại lương khương,

Gương trong chớ để chi phơ phất,

Tơ trắng đừng cho chút vấn vương.

Một mảy lòng sai mau sửa lỗi,

Đừng cho trần khí nhiễm đàng tràng.

II.

Đàng tràng cao thượng mới vừa yên,

Còn muốn mang lời với Tán-Tiên

Pháp chuyển sanh điều may khỏi dữ,

Ma cơ viện cớ ắt không hiền.

Chanh ranh bánh trước đà lăn úp,

Chợp rợp xe sau dợm ngửa nghiêng,

Công việc muốn làm, làm chẳng hỏi,

Khen cho mãi mãi để Thầy phiền.

III.

Thầy phiền nào có ích chi đâu?

Vụng tính không ngừa việc trước sau

Thấy vậy chẳng răn thêm luốt lát,

Bởi thương ít phạt lại lau chau,

Từ đây qui luật thêm nghiêm nhặc,

Mãi tới chương trình cứ sửa trau

Chánh quả được thành cho giáng bút,

Cấm đừng kẻ khẩn lại người cầu

IV.

Khẩn cầu ai có chứng cho đâu,

Khéo sắm nề cho quỉ phá chay.

Ruộng sẵn, tiền dư, toan phí của,

Mưa sa, nước ngập, khó gieo cày.

Năm lừa, bảy lọc, vừa mừng đấy,

Một lỡ, hai lầm, gẫm xót thay

Có chút lòng thành tua gắng sức,

Chớ sa nẻo vạy, bỏ đường ngay.

V.

Đường ngay kỉnh Phật với thờ Trời,

Chớ thấy thương rồi lại dể ngươi

Một dạ thành tâm quên gắn vó (gắn bó)

Trăm điều ma quỉ dục tơi bời.

Gai chông án mặt tua ruồng bỏ,

Đạo đức gìn lòng mới thảnh thơi.

Có chí thì nên, lâu phải được,

Bồng-lai, Nhược-Thủy sức đua bơi.

VI.

Đua bơi chi cái thú yêu tà?

Nước trí non nhơn sẵn vốn TA

Kinh kệ sân vàng, vòng Thái-Ất,

Móc mưa bụi đỏ, báu Di-Đà.

Trăng trong gió mát nào eo hẹp,

Cội cả nguồn sâu chớ bỏ qua

Tam-giáo dạy ròng lòng tín ngưỡng,

Có đâu Phật Phật lại ma ma!
VII.

Phật ma, ma Phật chẻ lòng tin,

Yêu quái chiều theo sửa tánh tình.

Đạo-hạnh nếu không già pháp tướng,

Ngươn-thần hằng phải loạn danh thinh

Bồ-đoàn sớm tối tiêu tiền nghiệt,

Bữu-Tọa hôm mai giác hậu sinh.

Khờ dại đáng thương, thương mới dạy,

Đố ai lấp được mắt Thần minh.

VIII.

Thần minh bất vị thói gian hùng,

Lánh hé ngờ qua luật Chí-Công,

Ẩn bóng Tam-Kỳ, tuồng đạo đức,

Bịa danh Thượng-Đế, bộ thung dung.

Chữa mình mượn tiếng đời ân xá,

Phỉnh chúng lầm đường tội bất dung

Lộng lộng lưới thưa đâu dễ lọt,

Để cho đứa nịnh nhuộm màu trung?

IX.

Trung thành cang trực chẳng vơ quàng,

Mới được danh đồn tiếng dậy vang,

Mạch nước báu dân lòng sắt đá,

Cửa chùa mối Đạo dạ son vàng.

Tu-trì chỉ nẻo khuyên đem lối,

Công-quả tìm phương khá dẫn đàng.

Sau trước một lòng bồi cội phước,

Thi ân đùm bọc đứa cơ hàn.

X.

Cơ hàn vấn vít đứa hàn vi,

Đời có từ tâm phải nghĩ suy.

Bố thí nét son bia ngọc bản,

Quả công sớ trắng tấu đơn trì,

Dẫu rằng dưới thế không hay đó,

Chớ tưởng trên Trời chẳng biết chi,

Nền thấp phải bồi, bồi mới vững,

Ráng lo công quả Thất Tam-Kỳ.

—————————d&c—————————


Cao-Thiên-Đàn Kiên-Giang,

Đêm 28 tháng 7 Canh-Ngũ (20-9-1930).
TÂY cảnh gìn lòng độ chúng sinh,

PHƯƠNG nào cũng độ khắp U-Minh,

THÍCH môn huệ tánh dồi tâm tướng,

CA giáo hư-vô luyện tánh linh,

CHỨNG cấp huyền cơ ban Nữ phái,

MINH mông ngọc sắc hội tiên danh,

THỂ vân xá lợi đồng vui hưởng,

LIÊN các cung Quỳnh bước rộng thinh.

Thượng ỷ chứng đàn cho:



THỂ sắc không không hựu bất không,

LIÊN hoa vạn đóa hiện vu trung,

TIÊN đơn ký đắc Minh Tâm-Tánh,

NỮ nữ nam nam, tánh diệc đồng.
GIẢI THUYẾT ĐẠO PHẬT:
1.- Tây-Phương Giáo-Chủ Thích-Ca,

Giảng minh thuyết pháp Thiên-hoa Liên-Đài.

Hằng sa số Phật hôm mai,

Nhứt-tâm qui hướng Như-Lai phước điền.

2.- Có câu Phật độ hữu duyên,

Khuyên ai ráng giữ Bổn-nguyên của mình.

Nhơn sanh vạn vật tối linh,

Tiền nhơn hậu quả như hình rọi gương.

3.- Phật-Ca hạ giáng Tây-Phương,

Xả thân cầu Đạo, bởi thương loài người.

Thương vì sanh chúng giữa vời,

Sánh cùng Thiên-Địa, xứng ngôi Tam-tài.

4.- Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài,

Có đâu già yếu, hôm mai tật nguyền.

Đến cơn bịnh khổ triền miên,

Thác rồi hết kiếp đảo điên trăm bề,

5.- SANH rồi lại BỊNH làm chi,

LÃO rồi lại TỬ, thảm thê vô cùng.

Nghĩ suy chi xiết não nùng,

Tuyết-Sơn tu luyện, dày công được thành.

6.- Quyết lòng độ khắp chúng sanh

Niết-bàn diệu quả, chứng minh Bồ-đề.

Rèn lòng nguyện lực Đại-Bi,

Vô thượng, chánh giác, kiếp thì viên minh.

7.- Đạo Phật càng gẫm càng kinh,

Bất sinh bất diệt, minh minh muôn ngàn.

Đại thiên thế giới mang mang,

Vô biên vô lượng, thanh nhàn trang nghiêm.

8.- Sắc không, không sắc, nan chiêm,

Vô ảnh, vô lượng, cổ kim diệu huyền.

Tầm lưu nhứt đán đắc nguyên,

Diệu trung chí diệu, hiển nhiên phi phàm.

9.- Bình tâm dưỡng tánh cho kham,

Tu lai cải vản, chớ ham vọng cầu.

Trong mình sẵn ngọc Minh-châu,

Trong mình sẵn Phật, phải đâu mà tìm.

10.- Trăng trong, gió lặng, nước êm,

Gay chéo Bác-nhã, khoát rèm Chơn-Như

Lần lần dọ bến không-hư,

Nọ bờ Cực-Lạc, kia bờ phi phi,

11.- Vượt qua Bát-chánh Đạo chi,

Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền.

Trải sang vô sắc Trùng-thiên,

Linh sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.

12.- Mấy ai rõ thấu Đạo mầu,

Thông hành, thể, dụng, nguyên, lưu Di-Đà

Dám rằng đạo Ấn, đạo Chà,

Khinh rằng quái đảng, gọi là dị đoan.

13.- Bắc, Nam cũng một con đàng,

Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay.

Rừng xanh, đố biết mấy cây,

Đáy sông mấy lớp, cung mây mấy từng?

14.- Đất sao chỗ nổng, chỗ bằng,

Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao?

Trên Trời, đố mấy ngôi sao,

Biển nọ Ai đào, núi nọ Ai xây?

15.- Loài người Ai tạo ra đây,

Thế gian Ai sắm, Ai bày thuở nao?

U ơ dường thể chiêm bao,

Đáy sông lặn nhào, mò vớt bóng trăng.

16.- Khoe khoe, nói nói, rằng rằng,

Sức người trí thức thắng phần Thiên-nhiên.

Lại chê báu vật mọn hèn,

Ca-sa, tích-trượng, hóa duyên vô cùng.

17.- Hiển-vi mà rọi trên không,

Khác nào nhắm mắt, lặn sông bòn vàng.

Thước đo mà hiểu Dinh-hoàn,

Khác nào bầy kiến mò đàng Tu-di.

18.- Con người chưa thấy sự gì,

Lường Trời, đong Đất, phân bì nhọc công.

Ngũ hành sanh khắc vừa thông,

Tưởng đâu đoạt hết Hóa-Công mấy lò.

19.- Ba ngàn thế giới Diêm-phù,

Mới vừa vừa biết, năm Châu mơ màng.

Còn ngoài ngoài nữa mênh mang,

Đại-Thiên thế giới, muôn ngàn Kiền-Khôn.

20.- Một mình Đức Phật Chí-Tôn,

Trong ngoài hiểu thấu chẳng còn sót chi.

Vị lai, quá khứ, hiện thì.

Giải phân kinh luật u vi rẽ ròi.

21.- Trần sa bể khổ, em ôi!

Phải độ mình rồi, đặng độ chúng sanh.

Đến ngày đắc quả Đạo thành,

Siêu thăng Thất tổ, độ thanh Cửu huyền.

22.- Muốn cho công quả vẹn tuyền,

Rửa xong nghiệp chướng, tập rèn chơn công.

Ngụy tà, phiền não không không,

Tam thân siêu chứng, lục thông có ngày.

23.- Ở ăn mực thẳng đường ngay,

Cang thường mựa chớ đổi thay tấm lòng.

Khắp trong Tam Giáo Đại Đồng,

Gái mà tiết hạnh, thỉ chung trọn đời.

24.- Xử xong cho trọn đạo người,

Nhơn duyên viên giác, Phật Trời chứng cho.

Có người gạt gẩm kẻ ngu,

Rằng thân phận gái, dẫu tu không thành:

25.- Một là thân phận hôi tanh,

Hai là vì bởi số sanh kiếp đày.

Ba vì lòng độc hiểm nguy,

Bốn là giống để làm tay chơn người.

26.- Năm là yếu đuối biếng lười,

Sáu là giống để nối giòng người dưng.

Bảy là thân phận chiếu chăn,

Tám là phận phải kẻ chăn, người cầm.

27.- Chín là dốt nát, tối tăm,

Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình,

Dầu cho vững chí tu hành,

Là tu hậu kiếp nguyện thành nam-nhi.

28.- Nực cười cho kẻ ngu si,

Đặt điều lời nói không vì không kiêng.



Rõ ràng Kinh Luật có biên,

Hàm linh xuẩn động hữu duyên năng thành.

29.- Huống chi gái cũng chúng sanh,

Phật là Từ-Mẫu nỡ đành chẳng thương.

Giải cho em đặng tỏ tường,

Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.

30.- Dầu cho nam-tử, nữ-nhi,

Ấy là sắc tướng của bề Hóa Công.

Phật là chuyên trọng Tánh tông,

Tánh tông vô tướng, vô dung, vô hình.

31.- Nguơn nguơn, hóa hóa, sinh sinh,

Bổn lai sẵn có nguơn-tinh, khí, thần.

Gọi là Tam-bảo chi thân,

Người tua trân trọng, muôn phần chớ rơi.

32.- Còn phần nam nữ vóc người,

Ấy là xác thịt của người phàm gian.

Tu cho đến cõi Niết-bàn,

Siêu phàm nhập Thánh, hoàn toàn Chơn-thân.

33.- Xác phàm gởi lại Hồng-trần,

Chơn-thân, Tam-bửu về phăng Liên-Đài.

Phật không phân biệt gái trai,

Hễ là đắc quả thì ai cũng đồng.

34.- Kìa như điểu, thú, côn trùng,

Chí tâm mộ Phật, thỉ chung cũng thành.

Giải cho em rõ ngọn nhành,

Ráng lo ăn học, tu hành cho nên.

35.- Còn nhiều nghĩa lý hiển nhiên,

Đoạn sau Chị sẽ giảng riêng từ phần.

Tu hành em ráng ân cần,

Có thân thì phải giữ thân làm đầu.

Thể Liên Tiên Nữ.
—————————d&c—————————

Cao-Thiên-Đàn Kiêng-Giang,

Ngày 22 Septembre 1930.

THÁI thỉ gầy nên cuộc Hóa-Công,

THƯỢNG thương ly hận luyện đơn cung;

ĐẠO Tiên hiển hích điềm linh-ứng,

TỔ Thánh roi truyền sự cảm thông,

CHỨNG kiến quang minh cần Phổ-Độ,

ĐÀN tràng giảng giải ý chơn tông;

THỂ gương bửu kính cho đời hiểu,

LIÊN tọa đài xây khắp Đại-Đồng.

Thượng ỷ Chứng Đàn cho:



THỂ đồng Thiên Địa diệu vô cùng,

LIÊN dẫn hương hề nguyệt dẫn phong;

TIÊN giác thệ tâm khai hậu giác,

NỮ ban tùng thứ bộ chơn-tông.
GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO:
1.- Kiền-Khôn thế giới một bầu,

Lão Quân Đạo-Tổ, cung Đâu giáo truyền.

Đạo nguyên Tiên, Hậu, nhị-thiên,

Làm đầu vạn Thánh quần Tiên trên Trời.

2.- Kể từ khai tịch dỉ lai,

Giáng sanh hóa Đạo, chẳng nài công phu.

Hư-không dường thể bóng thu,

Bí truyền Tánh, Mạng, song tu huyền hoàng.

3.- Người tu định nhiếp Âm-Dương,

Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh minh.

Tuy vân tích khí thành hình,

Âm dương nhị khí, khinh thanh thượng phù.

4.- Trọng trược ngưng hóa Địa-Cầu,

Bắc Nam Thiên trục, Thiên xu chẳng dừng.

Ngày, đêm, nhựt, nguyệt, tinh, thần,

Sanh nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.

5.- Gọi là một cõi Thế-gian,

Ngoài đây còn có ba ngàn minh mông.

Đạo thông Thiên-địa vô cùng,

Diệu truyền yếu chỉ Hóa-Công dạy đời.

6.- Chỉnh xem ý vị của Trời,

Lặng trang êm phẳng, không hơi, không rằng.

Chơn-không, Thủy, Hỏa, đôi vừng,

Chuyển luân nhựt nguyệt, lưu tuần ngày đêm.

7.- Hằng sa tinh tú thuộc Kim,

Như châu như ngọc để ghim nửa lừng.

Gió dông thay đổi Hồng-quân,

Ấy là Chơn-mộc choán phần không-trung.

8.- Chuyển gầm sấm sét đùng đùng,

Ấy là Chơn-thổ vẫy vùng thiên oai.

Ngũ hành ấy thuộc phần Trời

Còn phần dưới Đất, thì người đều thông.

9.- Con người sanh ở giữa vòng,

Đủ Trời đủ Đất, ở trong thân mình.

Ngũ hành còn phải chia rành,

Âm Dương Thiên Địa, hình danh thể nào.

10.- Y-gia đã có công cao,

Chia hai tạng phủ, trỏ vào âm dương.

Dùng công Tạo-Hóa đặng lường,

Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn-âm,

11.- Hiên, Kỳ(*), mối Đạo cao thâm,

Người chưa hiểu thấu, nên lầm nên sai.

Ngũ hành phải biết có hai:

Có hình thuộc Đất, ở Trời thì không.

12.- Nhơn-thân là Tiểu-Kiền-Khôn,

Khinh thanh, trọng trược, hiệp thành hóa sanh.

Tạng, phủ là âm ngũ hành,

Còn dương ngũ khí, lưu hành châu thân.

13.- Học Đạo càng phải biện phân,

Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu.

Phóng tâm, âu phải ráng thâu,

Thân tâm định tánh, đặng cầu Thiên-chơn.

14.- Tai nghe hóa giận, hóa thương,

Ấy là thiên-thủy dẫn đường nơi trong.

Bắt mùi hoặc thích hoặc không,

Thiên-kim nơi mũi, hơi lồng thấu tim.

15.- Miếng ngon hoặc nhớ hoặc thèm,

Lưỡi là Thiên-hỏa chiếp đem vào lòng.

Sắc nào ưu đẹp muốn trong,

Ấy là Thiên-mộc, tại tròng con ngươi.

16.- Vật-dục che lấp lòng Trời

Ấy là Thiên-thổ, ý người ham mê.

Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, ráng dè,

Đều quan tâm ý, thiệt là chơn tu.

17.- Ngũ hành, thiên địa mù mù,

Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa!

Âm dương, nhị khí của TA,

Đục trong phân biệt, điều hòa Chơn-Như.

------------------------------------------------

(*): Hiên là Hiên-Viên Huỳnh Đế; Kỳ là Kỳ-Bá là Tổ Thầy thuốc Bắc.

18.- Gìn lòng thanh-tịnh, không hư,

Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ.

Lòng đừng vọng tưởng ước mơ,

Ý tua định tóm, chơn-cơ hoàn toàn.

19.- Hãy xem võ trụ Dinh-Hoàn,

Đều đồ hư mục, chớ màng chớ mê.

Tục rằng: sống gởi, thác về,

Thần Tiên bất lão, có hề chi đâu!

20.- Dẹp xong ngũ tặc làm đầu,

Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành,

Tam-quang rọi thấu nguơn-thần,

Tam-thân hiệp nhứt Chơn-nhơn công thành.

21.- Ấy là đến bực Trường sanh,

Còn muốn thân hình bạch nhựt siêu thăng:

Phải lo bồi đắp bổn căn,

Thiên kim diệu lý sẽ phân có ngày.

22.- Nhứt tâm tín ngưỡng tới Thầy,

Lời rằng: “tao đố không thầy, mầy nên”.

Các em sốt sắng cho bền,

Muốn cho nhà cửa vách phên vững vàng:

23.- Phải lo nền đắp cho an,

Có Kinh Cảm-ứng chỉ đàng tu thân.

Mới đây “Thiệp-Khuyết Tu-Chơn”

Của Thầy ban bố, công ơn vô ngằn.

24.- Có phước nên mới có phần,

Có đâu nghe được lời trân trọng nầy.

Huỳnh-đình, tu luyện đêm ngày,

Tu tâm dưỡng tánh, sánh tày Hóa-Công.

25.- Kiếp đời, cá chậu chim lồng,

Trăm điều giả dối, có thung dung gì!

Trời kia mà giả mới kỳ,

Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.

26.- Đất sao chỗ lở chỗ bồi,

Cũng là giả cuộc, có đời chi đâu!

Người đời lúc mạnh lúc đau,

Hoặc còn hoặc chết, chiêm bao làm tuồng.

27.- Vì chưng ngũ tặc loạn chơn,

Tâm thần chẳng tịnh nên vương lưới trần.

Âm Dương, Đạo Đức sáng trưng,

Dùng gương vô-kiệt, luyện thần hư-vô.

28.- Phải phân tà chánh lưỡng đồ,

Bàn-môn tả-đạo, ai khờ phải mang.

Nghĩ coi cũng một con đàng,

Nó chia Nam Bắc, rộn ràng lăng xăng

29.- Điền Ly, bổ Khảm tưng bừng,

Thiêu-đơn, luyện-hống, nhố nhăn mơ hồ;

Đường ngay em cứ bước vô,

Lâu ngày tà-giáo làm trò gì nên!

30.- Ráng nghe lời Chị dạy khuyên,

Có ngày cũng được bạn Tiên cung Trời

Pháp-ngôn sơ dẫn ít lời,

Huyền gia bửu pháp, nhiều lời dạy sau.

Thể Liên Tiên Nữ.

—————————d&c—————————





Cao-Thiên-Đàn Kiêng-Giang, đêm 7 tháng 1 Tân-Vì.

CHÍ đức hóa thương sanh,

THÁNH mô tập đại thành;

VĂN chương nhi võ hiển,

TUYÊN Đạo định san kinh;

CHỨNG thử tam tùng giáo,

THỂ trình ngũ sắc quang,

LIÊN hoa chơn thắng cảnh,

ĐÀN sỉ tánh tâm minh.
Thượng ỷ Chứng Đàn cho Thể Liên Tiên Nữ.

THỂ dụng hoàn toàn doãn khuyết trung,

LIÊN tư khiết bạch tự nhiên dung,

TIÊN thiên đạo hiệp tam nhi nhứt

NỮ khảm nam ly đoạt hóa công.

Bần-Đạo chào chư Đạo-hữu.



GIẢI THUYẾT ĐẠO NHO:
1.- Thánh Kinh Trung-Hiếu làm đầu,

Dầu Nam dầu Nữ phải trau trọn niềm.

Trải xem sách vở cổ kim,

Ngàn Kinh muôn Điển dạy kềm thảo ngay.

2.- Trời cao biển thẳm Đất dày,

Nho gia vững đặt chẳng lay chẳng sờn.

Dạy người luân lý cang thường,

Dạy người trung tín nghĩa nhơn vuông tròn;

3.- Dạy cho biết phép biết khuôn,

Lễ nghi đạo đức cội nguồn dân sanh.

Trung-Dung hai chữ chí thành,

Phát minh Thiên Địa, lưu hành căn cơ.

4.- Dịch Kinh chép để sờ sờ,

Hà-đồ lại với Lạc-thơ rõ ràng.

Thánh nhơn nghiên cứu âm-dương,

Ngũ hành sanh khắc tuần hườn châu nhi.

5.- Đạo thông từ lúc Phục-Hy,

Lần qua Đại-Võ đến kỳ Văn-Vương.

Châu-Công, Khổng-Thánh tiếp nương,

Lập thành Mối Cả, mở mang con người.

6.- Từ sanh có Đất có Trời,

Có người mới đủ sánh ngôi Tam-Tài.

Âm dương một lý mà hai,

Như người một giống gái trai hai hình.

7.- Trời thì sanh có năm Hành,

Người thì năm Đức sẵn in vào lòng.

Suy ra cho tột cho cùng,

Thiên nhơn nhứt Lý quán thông chẳng rời.

8.- Nghĩ rồi mới rõ Đạo Trời,

Rõ rồi nên phải bày lời dạy khuyên.

Xưa nay những bực Thánh Hiền,

Thay Trời dạy Đạo sách biên muôn vàn:

9.- Dạy cho khắng khít Tam Cang,

Dạy cho gắn chặt Ngũ Thường Nhơn Luân.

Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Điển Phần,

Hiến chương Văn Võ noi chừng Thuấn Nghiêu.

10- Tam thiên tam bá đủ điều,

Dùng gương tiên giác dắt dìu hậu lai.

Dạy đời chẳng sót một bài,

Tề gia trị quốc chẳng sai phân hào.

11.- Nho-gia rộng lớn xiết bao,

An dân an quốc công cao muôn đời.

Những điều cư xử làm người,

Chẳng sót một lời Ngài nỡ bỏ qua.

12.- Đến phần Triết-học cao xa,

Sánh cùng Phật Lão cũng là mỉa mai.

Kẻ sau học hỏi sơ sài,

Chia phe, chia phái, biếm bài khen chê.

13.- Chưa thông ý vị Trọng-Ni.

Mà chê Đạo khác thuộc về dị đoan.

Chẳng dè Tam-giáo Thánh nhân,

Truyền trao Mối Cả phải nương theo thời.

14.- Nói rằng Phật Lão hại đời,

Chẳng dòm Khổng-giáo biếm người bội sư.

Đạo nào cũng tại người hư,

Đạo nào cũng giữ khư khư tánh Trời.

15.- Bổn sơ khuyên chớ đổi dời,

Chí ư chí thiện trọn đời đừng sai.

Ngọc trong nhờ có sức mài,

Người muốn nên tài thời phải chí tâm.

16.- Tấc vàng tấc bóng quang âm,

Ba dư mựa chớ tưởng cầm rằng chơi.

Muốn cho đứng đợt với đời,

Nhơn hòa, Địa lợi, Thiên thời phải thông.

17.- Muốn rành thể dụng Hóa Công,

Âm dương động tịnh chấp trung điều hòa.

Mọi người noi giữ giềng ba,

Gìn câu tha thiết, trát ma chớ rời.

18.- Nhơn Tâm nguy lắm em ôi!

Gìn lòng thận-độc giữ lời u vi.

Quan-phòng hai chữ Trí Tri,

Chánh Tâm, Thành Ý, vô khi Không-Điền.

19.- Hi Hiền, hi Thánh, hi Thiên,

Do mình trì chí tự nhiên được thành.

Có câu Thiên Địa hiếu sanh,

Họa dâm phước thiện tại mình mà ra,

20.- Khuyên đời khá bỏ thói tà,

Tồn tâm dưỡng tánh, ta bà hư thân.

Khắp trong Tam-giáo Thánh Nhân,

Người Tiên, người Phật, Thánh Thần giống nhau:

21.- Dạy điều ngay thảo làm đầu,

Làm lành lánh dữ trước sau một niềm.

Bình tâm chánh nghĩ mà xem,

Đạo, Nho, Thích-Giáo thù hiềm bởi đâu?

22.- Chẳng qua tại kẻ làm đầu,

Xảo ngôn dỉ tự loạn châu no mình.

Có câu Thiên Địa lưu linh,

Vô thinh, vô xú, vô hình, vô danh.

23.- Mang mang thiên lý lưu hành,

Vô ý, vô tất, nguơn hành trinh kiên.

Trung- Dung bất diệt bất thiên,

Quang tiền dũ hậu danh truyền thiên thu.

24.- Trạch dân trí chúa thân tu,

Dương danh hậu thế qui mô vô cùng.

Thánh ngôn thiên tải kỳ phùng,

Các em mựa chớ tấc lòng đơn sai.

25.- Ngày đêm hôm sớm khuya mai,

Sắt kia có thuở mình mài nên kim.

Thể Liên Tiên Nữ.

—————————d&c—————————



CHÉP 10 BÀI KINH KÍNH MỪNG.
1.- Kinh kính lạy Đức Chí Tôn.

2.- Kinh kính lạy Đức Diêu-Trì.

3.- Kinh kính lạy Đức Phật-Tổ Như-Lai.

4.- Kinh kính lạy Đức Đạo-Tổ Lão-Quân.

5.- Kinh kính lạy Đức Văn-Tuyên Khổng-Thánh.

6.- Kinh kính lạy Đức Da-Tô Giáo-Chủ.

7.- Kinh kính lạy Đức Quan-Âm.

8.- Kinh kính lạy Đức Lý-Giáo-Tông.

9.- Kinh kính lạy Quan-Thánh Đế-Quân.

10.- Kinh kính mừng Nữ Phước Thần.

—————————d&c—————————
Cao-Thiên-Đàn, mồng 2 tháng 7 Canh-Ngũ.

QUAN thủ Nam Thiên môn,

VÂN hàm độc chiếm Tôn,

TRƯỜNG niên triều Ngọc-Đế,

CHỨNG Đạo biến Kiền-Khôn.

Ta vưng lịnh Đức-Chí-Tôn chứng Đàn cho Thể-Liên Tiên-Nữ giáng bút dạy Kinh Nhựt-Thời làm Lễ Đức-Chí-Tôn, Đức-Thánh-Mẫu và chư Đại-Nhơn Tam-Giáo.


Thượng ỷ chứng minh.

THỂ phách linh minh vốn ở Trời,

LIÊN tu tâm tánh mựa rằng chơi,

TIÊN hương Phật quấc do mình tạo,

NỮ tịch dành cho bạn Nữ khôi.
KINH KÍNH LẠY ĐỨC-CHÍ-TÔN:

1.- Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn,

Mở lòng bác ái thương với cùng,

Con đà lạc Tổ, xiêu Tông,

Đem đường dẫn lối nhờ trông có Thầy.

2.- Tam-Kỳ vừa gặp hội nầy,

Tan sương vén ngút rẽ mây trong Trời.

Cõi tần bể khổ, Thầy ôi!

Cầu Kinh hôm sớm, cứu người trầm luân.

3.- Thầy ôi! Con dại vô ngằn,

Cầu xin lượng cả khoan hoằng bao dung,

Từ đây con nguyện Chí-Công,

Kiên tâm dốc chí một lòng không sai.

4.- Nhờ xin lượng cả đoái hoài,

Cho người ủng hộ, hôm mai tập tành.

Lòng thành thấu đến Cao Xanh,

Ngửa xin lượng cả chứng minh lời cầu:

5.- Vô ưu, vô lự, vô câu,

Tu tâm dưỡng tánh, trước sau cho tròn.

Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn,

Mở lòng bác ái thương với cùng.

—————————d&c—————————
THỂ tắc Chơn-Âm tánh Bổn-Dương,

LIÊN tri độc chiếm mảng thanh hương,

TIÊN nga ngọc thủ thi trân trọng,

NỮ vị Trung-Cung tánh tự chương.
KINH KÍNH LẠY ĐỨC DIÊU-TRÌ:

1.- Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Cho người đam khỏi mê tân,

Đặng cho con dại nguơn thần mở mang.

2.- Con đà sái bước lạc đàng,

Muôn ngàn tội lỗi chứa chan dẫy đầy.

Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,

Tha cho con dại thơ ngây lỗi lầm.

3.- Từ đây con nguyện chí tâm,

Cải tà qui chánh lo chăm theo Thầy.

Gió trong vén ngút rẽ mây,

Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.

4.- Đừng cho xiêu lạc vất vơ,

Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.

Lòng con rót cạn chử-thành,

Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom.

5.- Cho người hôm sớm thăm lom,

Cho người dạy dỗ hôm mai kịp thì.

Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

—————————d&c—————————

Kiêng-giang, le 17 Octobre 1932.

THỂ Đức như gương chiếu cõi Trời,

LIÊN châu năm sắc rạng nơi nơi,

TIÊN phàm khuyên chớ đua bay giỏi,

NỮ kỷ Nam cang ráng trọn lời.

THẬP THỦ LIÊN HƯỜN

I.

Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng,

Thức tỉnh người mê cõi Á-Đông.

Mở dạy Trung-Nguyên ngôi Thái-Kiệt,

Rải gieo Nam-Việt giống Thần-Nông.

Ngoài trong đen trắng, năm ba số,

Phải trái vàng xanh, một ít vòng.

Đậm lợt mỏng dày cao với thấp,

Hiểu chăng hoặc có khác Non-Bồng.

II.

Non-Bồng ai khiến đến thày lay,

Biết đó sao chưa biết đặng đây.

Tiểu-muội núp gương cam phận Túy,

Đại-bàng phơi cánh ngóng Trời Tây.

Đừng rằng cảnh Phật vui chuông trống,

Mà đón lòng người lướt gió mây.

Nầy thấy nầy chưa nầy ướm hỏi,

Trầm luân mài miệt cuộc no say.

III.
No say quên lửng nhứt phi tam,

Thập bát nguyên-nhân nhị cửu hàm.

Trần tĩnh trần sa oai Phục-Hổ,

Điển trừ yêu nghiệt báu Già-Lam.

Đạo cao khuyên gắng công ma niết,

Học quản tua gìn chữ khiết tham.

Người hỡi người ôi người khá tỉnh,

Chớ kìa kẻ Bắc lại người Nam.



IV.

Người Nam kẻ Bắc lại sum vầy,

Khuyên chớ trầm trồ sự dở hay,

Hùm được thêm oai nhờ sức gió,

Rồng nên vẻ đẹp bởi chiều mây.

Vô biên vô lượng đành không dễ,

Bất kỵ bất cầu mới thiệt hay.

Chín chín nạn dư vừa thấy Phật,

Thấy rồi rõ Phật ở mình đây.

V.

Mình đây nhiều kiếp biết tu hành,

Biết được mau lo độ chúng sanh.

Nhơn quả trả vay tuồng sóng lượn,

Công danh thành bại bức mây tranh.

Cờ cao túng nước mau xoay thế,

Nhà rộng Trời khuya kịp điểm canh.

Áo bã hài gai chuông tỉnh mộng,

Tài tình khuyên trẻ mựa cành nanh.

VI.

Cành nanh quá lắm ích chi dâu,

Tự cổ đồn bia tiếng bể dâu

Liên lạc vướng nhành mưu chước nhện

Oai phuông tuông nọc thế thần sâu

Đã đành người báu so Trời Đất

Thì để danh lành sánh trước sau.

Sáu chữ Di-Đà nguồn cội cả, (*)

Học cho thông suốt mới cơ mầu

---------------------------------------------------

(*): sáu chữ “Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn” thế cho Lục tự Di-Đà.
VII.

Cơ mầu Thầy mở dạy miền Nam,

Hào kiệt khuyên mau lánh khớp vàm.

Gióng trống Giác-Mê qua bĩ ngạn,

Rung chuông Khải-Ngộ đến Lôi-Âm.

Hư-vô kiến-tánh noi Cao-Giáo,

Thanh-tịnh tu-tâm học Lão-Đam,

Kìa bến nọ bờ đây Lạc-thổ,

Màu nào xanh được lấn hơn chàm.

VIII.

Hơn chàm được thấy có Tam-Thanh,

Mà được cùng không cũng tại mình.

Đạo lý cao kiên lo chạy cứu,

Công trình trung tín nỡ ngồi khoanh.

Minh mông sóng khổ đua chìm đắm,

Chợp rợp đường tu thiếu học hành.

Dầu cạn đèn khêu người ngây giấc,

Chưa hay Trời đã quá năm canh.

IX.

Năm canh chuông mõ chẳng ngơi tay,

Khuyên nhủ anh em dậy rửa mày.

Long-Hổ điển-quang vầy hiệp đó,

Thần Tiên xá-lợi sẵn sàng đây.

Ngàn năm một kiếp nên bồi bổ,

Mười tám năm đều chịu trở day.

Khôn dại đua tranh chi nước bọt,

Thôi thôi ráo tiếng giả làm khuây.

X.

Làm khuây đặng có nghĩ trong lòng,

Hà-Lạc Đồ-Thơ số tứ tung,

Bắc-Đẩu chốt then sao chói rạng,

Tây-Phương hình dạng cõi hư-không.

Vô-vi ấy Đạo phi chơn tướng,

Hữu-dụng cho người chiếm hóa công.

Khuyên rửa tánh phàm noi Thánh-huấn,

Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng …/-
—————————d&c—————————


Cao-Thiên-Đàn Kiêng-giang, đêm 20 tháng 7 năm 1930.

tuân ý chỉ phán nhơn gian,

THÁI Thượng Tam Thanh tấu Thánh-nhan,

BẠCH chỉ kim ngôn hồng tự điểm,

Thể-Liên Tiên-Nữ giáng Đài Đàn.

Thượng ỷ chứng Đàn cho Thể Liên Tiên Nữ dạy Đạo.



PHÁT MINH THỂ LIÊN TIÊN NỮ:

1.- Nầy năm mười chín trăm ba,

Giáng cơ để vận nom na ít lời.

Ráng khuyên phụ-nữ trong đời,

Chớ rằng thấp thỏi mà cười mà khinh.

2.- Người người đều sẵn tánh lành,

Phật Trời ban phú cho mình ban sơ

Bởi hay lắc lẻo hỏng hờ,

Lầm đường lạc bến, sa cơ suy vời.

3.- Muốn cho đam lại tánh Trời,

Hãy tua gìn giữ nghe lời Chị khuyên.

Tiên, phàm tuy có hai tên,

Muốn cho thoát tục thành Tiên khó gì!

4.- Hãy lo hôm sớm tu trì,

Giồi mài Bổn-Tánh, qui y Linh-Hồn.

Phật Trời Đạo-thể Chí-Tôn,

Lòng người nham hiểm ba vuông bảy tròn.

5.- Đua chen trí xảo tài khôn,

Lâu ngày Bổn-Tánh hư mòn Chơn-nguyên.

Dầu cho cửu chuyển Thần Tiên,

Không trau Chơn-Tánh, tự nhiên lụy mình.

6.- Huống chi phận gái hậu sinh,

Quên đường đạo đức, nên hình thể chi?

Các em vụng tính hẹp suy,

Thấy đời rằn rực cứ đi theo đời.

7.- Ham ăn, ham nói, ham cười,

Ham bề vật-chất, ham mùi phù-vân.

Sao không suy xét cân phân:

Mấy đời cõi tạm cho bằng quê xưa.

8.- Hồng-trần phơi nắng tắm mưa,

Sao bằng Tiê-cảnh không trưa không chiều.

Hồng-trần khổ hạnh trăm điều,

Sao bằng Tiên-cảnh tiêu diêu thanh nhàn.

9.- Hồng-trần là chốn lửa than,

Bọt nước sôi tràn, thấy đó mất đây.

Ai ai chẳng hiểu lệ nầy,

Thác rồi nắm được trong tay vật gì?

10.- Đua chen khôn dại thị phi,

Tắt hơi nín thở còn chi đâu là?

Sao bằng giữ mực thật thà,

Rảnh rang xác thịt, ta bà hồn linh.

11.- Cang-thường Đạo-thể trọn lành,

Phật Trời qui luật chí thành phương vâng.

Hồng-trần trọn nghĩa, trọn nhân,

Hồn-linh mới bước đến tầng mây cao.

12.- Thiện tâm chẳng dạ lảng xao,

Thiên đường mới được ra vào thung dung.

Một lòng một dạ thỉ chung,

Sống thơm danh giá, thác phong rỡ ràng.

13.- Hãy xem Thần Thánh muôn ngàn,

Đều người nghĩa khí, trung cang mới thành.

Gái mà tiết-liệt trung-trinh,

Gái mà tiết hạnh, Thiên đình bia tên.

14.- Cung Diêu, cung Quế, cung Sen,

Hàng luôn Tiên nữ, dãy liền Tiên nga,

Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,

Thủy tinh bao phủ, sáng lòa như gương.

15.- Nguời đời yêu chuộng thủy xoàn,

Nào hay đồ dụng đài trang Tiên tòa.

Người đời yêu chuộng vinh hoa,

Nào hay bị cái dây ma khớp vàm.

16.- Chớ rằng tại ở cõi phàm,

Phải lo phu phỉ cho kham với đời.

Cõi phàm mà thấu Đạo Trời,

Kìa trang Tiên Thánh cũng người phàm-gian.

17.- Giàu sang sánh với cơ hàn,

Giàu sang còn để bước đàng chơn tu.

Đố ai phân biệt trí ngu,

Mây bao bịch phủ, sương mù mịch giăng.

18.- Người ngu mối Đạo biết phăng,

Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi.

Thấy vầy nên Chị ngùi ngùi,

Thương em, Chị phải tới lui giảng bài.

19.- Tam-Kỳ sẵn mối Đạo Thầy,

Khá tua ráng sức cho dày công-phu.

Thì giờ thấm-thoát bóng cu,

Một ngày qua khỏi, ngàn thu không tìm.

20.- Nữ-sanh là phận các em,

Không lòng sốt sắng, càng thêm lạc lầm.

Chị xin Đức Mẹ chế châm,

Cho Chị giáng bút, Thánh âm phân trần.

21.- Mẹ cho, Chị xiết nỗi mừng,

Nên Chị vội vã, ân cần đến đây.

Phái Nam đã đủ chơn tay,

Phái Nữ đến rày, xem thiếu chị em.

22.- Nghĩ coi tự cổ chí kim,

Làm thân con gái mỏng mềm sút-thua.

Hêu đòi cờ bạc hốt dùa,

Nết xấu ráng chừa, đặng giữ thân danh.

23.- Quê môn phận gái đã đành;

Đến việc tu hành lại cũng rút co.

Đường ngay ít kẻ đắn-đo,

Đường gai nẻo gốc lần mò lủi đi.

24.- Phật Trời thương xót xiết chi,

Đã bày ngũ giới, tam qui rẽ ròi.

Ngặt lòng tín ngưỡng lôi thôi,

Có việc cầu Trời khẩn Phật tứ tung.

25.- Từ đây khuyên khá rèn lòng,

Nghe lời Chị bảo, chí công tập tành.

Công phu, công quả, công trình,

Phân rành chương thứ, phân minh tỏ tường.

Thể Liên Tiên Nữ.

—————————d&c—————————



V

MINH LÝ HỘI
Kinh “Tu Chơn Thiệp Khuyết” và “Chánh Tà Yếu Lý” in ra rải rác cùng lục tỉnh cho chức-sắc Tam-Kỳ xem và cũng có gởi về trên Tòa Thánh Tây-ninh nhưng mấy anh lớn không nhìn nhận, nói rằng không phải cơ bút của Thầy viết ra.

Bởi vậy, Ban Cai Quản Thánh Thất Mỹ-tho có thơ mời các chủ Thánh Thất và mấy anh lớn Tây-ninh tựu về Mỹ-tho ngày 15 tháng 4 năm Tân-Vì (31 Mai 1931) đặng bàn tính về vụ Đạo chinh nghiêng.

Tòa Thánh Tây-ninh có phái ông Nguyễn Ngọc Tương xuống, còn chức sắc các nơi tựu về cũng đặng vài trăm người, năm mười ông lên diễn đàn đánh đổ mấy anh lớn Tây-ninh và trưng bằng cớ rõ ràng nên xin trong hội bắt thăm không hiệp tác với Tòa Thánh Tây-ninh nữa.

Còn ông Tương thay mặt cho Tòa Thánh Tây-ninh có dự hội, mà cũng không nói tiếng gì, rồi trở về Tây-ninh.

Đức Chí Tôn có giáng Đàn dạy như sau nầy:

Mỹ Tho, đêm 14 tháng 4 Tân-Vì.

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Hội-Giáo Nam-Phương
Thầy mừng các con, ngày hôm nay Thầy rất buồn.

THI:

NGỌC trắng rồi lem chẳng biết cầm,

HOÀNG thiên đâu phụ kẻ từ tâm,

THƯỢNG lưu chí khí lòng nhơn đại,

ĐẾ Đạo Thầy khuyên chớ trách lầm.
Khóc!!!

Dầu đã cạn nên đèn phải tắt,

Khuyên các con dìu dắt nương nhau;

Có câu: thiện ác đáo đầu,

Vương mang tai họa chịu sầu ngàn thu.

Lời hồng thệ dốc tu sửa lỗi,

Đứng phía trên nắm mối sợi dây;

Làm cho con nghiệt cả bầy,

Trách ai đem Đạo của Thầy đi chôn.

Danh Đại-Đạo tiếng đồn dội khắp,

Cả thế gian Đông, Bắc, Tây, Nam;

Hồng-trần phú quí còn ham,

Thiên-Đường cũng muốn lên làm Phật Tiên

Thầy chẳng nỡ lấy quyền dạy Đạo,

Dụng từ-bi khuyên bảo các con …

—————————d&c—————————



VI

ĐẠO SẮP CHUYỂN VỀ KIÊN GIANG
Qua tháng 6, ngày 17 năm Tân-Vì (1931) Thầy lập An Thiên Đại Hội kỳ nhứt tại Rạch-giá có đòi các Thánh Thất tựu nghe Thầy dạy:
Kiêng-giang, đêm 18 tháng 6 Tân-Vì (1931).

KHƯƠNG kỳ bỉnh chấp cuộc Thiên nhiên,

THÁI nhứt sanh sanh kiếp vẹn tuyền,

CÔNG phẫn dốc thâu nền Đại Đạo,

MỪNG thay thấy rộng cảnh Long-Kiên.

Miền Lưỡng Giang sông Rồng cạn lối,

Trước vì TRUNG giả dối phỉnh người,

Tưởng rằng Đại-Đạo trò chơi,

Đặt điều huyễn hoặc, bày lời vô căn.

TRANG xảo ngữ xưng Thần xưng Thánh.

Mối tơ xe bất chánh bất lương,

Hay đâu Thiên Địa tuần hườn,

Ai xe dây nghiệt thì vương lưới Trời.

THƠ cả mật bày lời hoặc chúng,

Cửu-Trùng-Đài náo động lòng dân.

Chẳng kiên Thiên Địa quỉ Thần,

Dụng tên Trời Phật đặng phần trò con.

Đại-Từ-Phụ Thánh-ngôn dẹp cất,

Lý Giáo-Tông Tân-luật sửa dời,

Chẳng tuân có Đất có Trời,

Tưởng rằng phấn thổ hưởng đời trong tay.

Cơn kiếp chót Thầy bày Đại-Đạo,

Dụng Tam-Kỳ dạy bảo nhơn sanh,

Dạy người lánh dữ làm lành,

Phò loan tiếng tạm đành rành TẮC DIÊU.

Khen hai gã liêu điêu thế mọn,

Thấy nhiều tiền thỏn mỏn đường ngay,

Dối người dám dối tới Thầy,

Độc quyền lợi dụng trong tay mình hoài.

Danh Đại-Đạo ai ai cũng khiếp,

Đứa tiểu-nhơn kiếp kiếp trầm luân,

Lão đây sẵn luật Phong-Thần,

Sẵn dành một cán Đả-Thần biết chưa?

An-Thiên Hội sớm trưa dựng mối,

Dụng Lưỡng Giang đặng nối Long-Kiên.

Ngũ Hành Thất Đẩu gầy nên,

Tam Giang Cửu khúc nối liền giăng giăng.

Thập-Bát-Hán, Thiên-ân chiêu tập,

Thập-Nhị-Thiên, Hoàng cấp biểu danh,

Lão đây sẵn lịnh đành rành,

Khuyên người bỏ dữ làm lành an thân.

Lời đinh sắt Lão phân đã cạn,

Bọn quỉ-vương hết nán trông mong,

Dầu cho mình đá da đồng,

Đả-Thần-Tiên xuống thì không còn hồn.

—————————d&c—————————


NGỌC sáng nhờ tay thợ khéo giồi,

HOÀNG cung mở rộng khắp nơi nơi,

ĐẠI thừa trí thức vầy sum hiệp,

ĐẾ khuyết từ đây người phải người.
Các con! Hãy lãnh trách nhậm theo đây:

- CA, vốn là An-Thiên La-Hán phái, cuộc lập An-Thiên Đại-Hội, trách nhậm nơi con, hầu trừ quỉ vương phá rối Đại Đạo.

Cửu-Hà-Khúc

Thầy đã bủa Ngũ-Hành-Tòa

Thất-Đẩu-Cuộc

sẵn cho các con làm vi cánh.

Lập An-Thiên Đại-Hội: Cửu-Hà-Khúc là Tam-Giang Thủy, Long-Hồ Tam-Bình Thủy, Tam-Xuyên Thủy.

a) Tam-Giang Thủy là: Tiền-Giang, Hậu-Giang đã có Phùng lãnh; Kiên-Giang (đã có người Thầy định).

Long-Hồ Tam-Bình Thủy (Thầy sẽ định).

b) Thất-Đẩu-Cuộc: non Cấm làm nền,

c) Ngũ-Hành-Tòa: Tam-Tôn làm gốc.

Nghe kệ:


Cuộc Thầy bủa An-Thiên Đại-Hội.

CA vững lòng chớ vội phiền ai,

Muốn nên danh cả chí trai,

Bền gan sắt đá chớ hoài công phu.

- LƯỢNG, con vốn là Chiêu-Thánh La-Hán phái. Thầy thử con một lúc, Thầy mừng con biết nghe. Con phải biết rằng: phái Chiêu-Thánh công-phu rất nặng vì phải lo chiêu-dụ những bực Hiền Thánh giáng phàm, nay đều là người trí-thức cả. Công-phu con là đó.

Con nghỉ khỏe một năm nay, tới thời kỳ của con; con chớ vội thối chí: xưa Hàng-Long, Vi-Hộ, Phục-Hổ hăng xung đột nhau, nhờ có Kim-Tiên La-Hán can gián, nên mới lập được thành Thập-Bát Đại-Giác La-Hán.

Thầy khuyên bỏ tánh xưa, vì trách nhậm con kỳ nầy rất lớn lao.

Kệ:

Lượng nên đại lượng đại khoan hồng,

Tâm chí người người dốc lập công,

Kiên nhẫn vịnh theo người Đạo Đức,

An-Thiên vững đặt hội Kỳ-Phùng.

- QUANG, con là Tịnh-Vân La-Hán phái. Con là người của Kim-Tiên La-Hán cậy đi trước nên con phải điều đình cho Thập-Bát Đại-Giác La-Hán thuận hòa, hầu lập An-Thiên Đại-Hội. Xưa con lỗi bước vì không có Chơn-Sư, nay có Thầy dẫn lối con ráng chí công.


Kệ:

Ớ QUANG, con hỡi biết hay chưa,

Lỗi bước càng xa chẳng phải vừa.

Đường cả có Thầy nay dẫn lối,

Đừng cho trễ nải buổi thêm trưa.

QUANG, con trao lịnh cho AN.

- AN vốn là Tính-Phong La-Hán phái.

Cả Cửu-Hà-Khúc, Thầy giao cho AN trọng nhậm truyền Thánh-Ý hầu giúp Ngũ-Hành-Tòa và Thất-Đẩu-Cuộc đặng lập An-Thiên Đại-Hội.

Thầy đã chỉ cho AN nhiều nơi đây. Thầy giao trách nhậm cho khỏi lưỡi mối miệng lằng, thì AN mới khỏi cho.
Kệ:

AN, con nầy ớ ớ con AN,

Lửa đỏ càng thêm sức tuổi vàng,

Cay đắng mặn nồng chua lại chát,

Muốn nên Tiên Phật trước gian nan.

- NHƠN, vì Thấy mắc luyện thần cho AN và ĐÂY nên Thầy cho Đồng-Tử Kiên-Giang nghỉ 3 tháng.


Kệ:

Đừng tưởng đâu đâu chẳng có Thầy,

Thầy cùng Âu, Mỹ khắp Đông, Tây,

Tây Ninh chớ mượn danh Thầy quá,

Quá thế nên ra đến đỗi nầy.

Vì Lý Thái Bạch mắc lo giúp Điển qua cho K… (nơi Âu-Mỹ) nên Thầy ra lịnh cho Khương-Thượng lãnh chức Giáo-Tông và Hải-Triều Thánh-Nhơn làm Phó Giáo-Tông, chẳng bao lâu Thể-Liên sẽ ban hành Kinh Kính Mừng cho hai Vị ấy.

—————————d&c—————————
HỘI CƠ BÚT

Ba ông Pháp Sư AN, ĐÂY, NGA lối tháng hai năm Nhâm-Thân (1932) hội cơ bút về Kiên-Giang đặng tập đồng tử, vì thấy cặp phò loan Chơn-Tâm và Tường-Khánh có diệu bút, nên mấy Ngài mượn cơ bút Kiên-Giang mà dùng, nên sái điển, hư, nên phải tạo cây bút khác, song trầm ba tháng thì ngày Đại-Hội An-Thiên kỳ nhì đã qua rồi.

Mấy ông lại bày Bạch-Y-Đạo, bày lễ Nhâm-Thân (vô nghĩa) rồi dắt nhau lên núi Cấm tập cơ bút 4-5 tháng, gởi thi bài về Mỹ-Tho mới in ra mấy cuốn “Chuyển-Mê” từ số 1, 2, 3, 4, 5 mấy quyển nầy không đúng Chơn-Lý, nên sau có Hiệp-Thiên-Đài dạy tiêu hủy.
—————————d&c—————————
XII.

BAN CHỈNH ĐẠO BẾN TRE
Tới đây ông Quyền Giáo-Tông Thượng-TRUNG-Nhựt qui tiên, ông Quyền Thượng-Đầu-Sư Nguyễn-Ngọc-Tương muốn giành Quyền Giáo-Tông tại Tây-Ninh mà không thuận với ông Hộ-Pháp Tắc, nên Ngài phải về Bến-Tre với ông Quyền Ngọc-Đầu-Sư Trang ở tại Thánh-Thất An-Hội, vì Ngài có đứng bộ đất cho 70 cái Thánh-Thất ấy, rủ các chức sắc theo Ngài mà tùng Bến-Tre, đoạn mới bày việc bỏ thăm tuyển cử Giáo-Tông, tự nhiên Ngài thắng số rất nhiều, nên cho mình là Giáo-Tông thế cho ông Thượng-TRUNG-Nhựt.

Người cứ tịnh hoài, chớ không có dùng cơ bút và Hiệp-Thiên-Đài dạy tu theo Tân-luật và Pháp Chánh truyền của Tây-Ninh.

Ngài còn muốn về Tây-Ninh, khi ông Ngọc-Trang-Thanh liễu đạo Ngài dạy đem linh cữu về Tòa-Thánh Tây-Ninh mà an táng, nhưng ông Tắc không cho chôn…
TƯƠNG chuối nước đâu gần cảnh Phật,

TRUNG nịnh gian khờ-khật tánh phàm;

Lợi quyền còn nặng túi tham,

Thiên-Đàng đâu để lên làm Phật Tiên.

(18-6-Tân Vì 1931).

-----------------------------------------------

(Coi án ông Tắc trong cuốn Đuốc Chơn Lý 33 trương 56. Coi án ông Tương trong cuốn Đuốc Chơn Lý 33 trương ).

—————————d&c—————————



B.

ĐỆ NHỊ TIỂU THỜI
HỌA ĐỒ CỰU TÒA THÁNH TRUNG-ƯƠNG (MỸ THO)
I.

BÀN THỜ:


A.- Thiên-Nhãn.

b.- Bài vị Tứ-Thánh:

- Đức Thích-Ca Mâu-Ni

- Đức Lão-Tử

- Đức Khổng-Phu-Tử

- Đức Jésus Christ

c.- Bài vị Tam-Trấn:

- Đức Quan-Âm

- Đức Lý-Thái-Bạch

- Đức Quan-Thánh

d.- Đức Khương-Thái-Công

e– f.- 2 bàn thờ chư Phật,

chư Tiên, Chư Thánh, chư Thần.

B.- Cửu-Trùng-Đài.

C.- Hiệp-Thiên-Đài.

D.- Bát-Quái-Đài.



II.
NGHI TIẾT
Bước qua đệ Nhị Tiểu-Thời, sự thờ phượng sắp đặt như sau nầy:

Trên thờ Thiên-Nhãn có chơn mày, lông nheo; trong trái tim màu đỏ.

Cấp thứ nhứt: có bốn bài vị Tứ-Thánh:

- Đức Thích-Ca Mâu-Ni

- Đức Lão-Tử

- Đức Khổng-Phu-Tử

- Đức Jésus Christ.

Cấp thứ nhì: có ba bài vị Tam-Trấn:

- Đức Quan-Thế-Âm Bồ-Tát

- Đức Lý-Thái-Bạch

- Đức Quan-Thánh.

Cấp thứ ba: có bài vị Đức Khương-Thái-Công.

Triệt hai bàn thờ bên tả, bên hữu.

Triệt bàn thờ của Hộ-Pháp, vì Thầy không dùng điển của Hộ-Pháp nữa.

Và có thêm một cửa giữa.

Còn sắc phục của Thiên-Phong: mão y như cũ và sửa lại theo Trung-Thiên, có thêm cái cũn, áo trắng viền đỏ-vàng-xanh theo phái.

Lập một cái Hiệp-Thiên-Đài một từng lầu, và một cái Bát-Quái-Đài ở phía trước.

Còn đọc Kinh thì dùng 10 bài “Kinh Kính Mừng”, Kinh chữ quốc-âm Thầy cho tại Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá).

—————————d&c—————————
III.
LẬP TÒA THÁNH TRUNG ƯƠNG (MỸ THO)
THÁNH HUẤN GIÁC MÊ (SỐ 6)
Định-Tường, đêm 18 tháng 7 Nhâm-Thân (1932).

NGỌC chiếu hào quang giọi đủ màu,

HOÀNG ngôn khen tặng kẻ cung dâu,

THƯỢNG hòa hạ lục vui chi bẵng,

ĐẾ Đạo danh nêu rạng Ngũ-Châu.

Thầy chào các con, Thầy cho các con bình thân. Các con, hằng lâu Thầy không rảnh để dạy các con một bài Đạo. Thầy cho các con một bài ráng tìm hiểu sẽ biết được mùi Đạo. Các con phải nhớ rằng: CHƠN-LÝ là ĐẠO mà ĐẠO là CHƠN-LÝ, vậy nghe thi:


Hai chữ Vô-Vi mối Đạo Thầy,

Bốn mùa thay đổi cứ vần xây,

Chim bay cá lội hoa đua nở,

Ai thấy thợ nào có để tay.

Để tay sao gọi được Vô-Vi,

Các trẻ lầm nghe nghĩ cũng kỳ,

Rộn rực lăng xăng tuồng dối trá,

Rằng đua công quả chốn trường thi.

Trường thi ai lập ở nơi nao,

Nào thấy đâu là cái bản rao,

Hễ có bản rao là vật chất,

Khuyên đời khá tỉnh giấc chiêm bao.

Tỉnh giấc chiêm bao ớ trẻ bầy,

Đừng tìm non núi hoặc cung mây,

Cao-Đài vốn ở lòng con đó,

Bỏ tánh tham si sẽ gặp Thầy.

Gặp Thầy, cùng chẳng tại nơi lòng,

Bã lợi mồi danh lóng sạch trong.

Thấu rõ thế-gian muôn tượng đó,

Nó đều không có cũng không không.

Không không, có có, có chi đâu,

Có đó, rồi không thật rất mầu.

Muốn có, có cho, không cũng được,

Có không hỏi thử chỗ cao sâu.


Cao sâu phút chút bỗng trang bằng,

Thể Đạo dường như nước với trăng.

Một lại Ba, rồi Ba lại Một,

Khuyên đời định tỉnh chớ lo xằng.

Lo xằng thêm hại, các con ôi!

Tang hải xưa nay cuộc lở bồi,

Đạo chẳng bảo lo, lo trái Đạo,

Ai mà trái Đạo ắt hư rồi.

Hư rồi khó dựng nói càng thương,

Khuyên nhủ nhơn sanh tỉnh mộng trường,

Sóng gió ấy là nguồn mạch nước,

Gió êm sóng lặng nước như thường.

Nước lặng như thường chẳng đổi day,

Tự nhiên xây vận thể đêm ngày

Gìn lòng giữ trọn CHƠN-NHƯ-TÁNH,

Hai chữ Vô-Vi mối đạo Thầy.


Các con nghe Thầy dạy:

11.- Lập QUỐC ĐẠO thiên tân vạn khổ,

Dạy các con phổ độ chúng sanh.

Các con mảng tại cầu danh,

Lớn làm nhỏ học tranh giành thấp cao.

Miệng Ngô mà bụng ở Tào,

Dựng phe kết đảng ngăn rào lấp sông.

12.- Khen các trẻ chẳng lòng hổ thẹn,

Nỡ dạ nào quên tiếng Thầy khuyên.

Kể từ Thầy lập An-Thiên,

Biết bao nhiêu nỗi than phiền với con.

Rằng: khuyên lớn nhỏ lo tròn

Giúp Thầy chuyển Đạo sắt son trọn niềm

13.- Thương con dại nghĩ thêm tím ruột,

Cứu cơn nguy Thầy buộc dĩ hơi,

Cạn sâu thêm tỏ đôi lời,

Khuyên đừng tật đố rã rời nhau ra.

Trăm điều nên xét gần xa,

Cũng đều máu mủ thịt da của Thầy.

14.- Lời hằng ví: một cây tròi trọi,

Làm sao cho nên mỗi hòn non,

Giữa sông bỗng nổi lên cồn,

Nhờ nhiều hột cát đắp dồn mới cao.

Đông mầy thì Tây có tao,

Giúp lời giúp sức việc nào chẳng nên.

15.- Trăm việc phải chí bền mới được,

Một bước cho một bước vững vàng.

Đừng tin những tiếng hoang đàng,

Đừng tin những tiếng dịu dàng quỉ ma,

Đừng mê những việc cao xa,

Đừng mê những việc dối Ta dối Trời.

16.- Khuyên các trẻ nghe lời Thầy dạy,

Đừng ham lo bay nhảy phi thường.

TU CHƠN THIỆP KHYẾT chỉ tường,

CHÁNH TÀ YẾU LÝ mọi đường biện phân.

Đạo Thầy như nước trong ngần,

Đạo không xao dợn phân vân rộn ràng.

17.- Đạo Thầy ở khắp tràn võ trụ,

Đạo Thầy lo khuyên nhủ nhơn sanh,

Khuyên người bỏ dữ theo lành,

Chẳng khuyên ở núi, ở gành, ở hang.

Chẳng khuyên theo thói dị đoan,

Chẳng khuyên hiệp lũ vầy đoàn dối dân.

(CA, PHÙNG, NHƠN ,LƯỢNG)



17.- Bốn con lãnh chung phần trọng chức,

Bốn con không hiệp nhứt cùng nhau,

Bốn con rời rã Thầy đau,

Bốn con bốn ý Đạo mau tan tành.

Hiện nay quỉ kế rấp ranh,

Hiệp nhau xẻ múng chia manh Đạo Thầy.

19.- Thầy chẳng nỡ để bầy con dại,

Bị quỉ vương làm hại phá hoài,

Thương AN ỷ sức cậy tài,

Chẳng tuân Thánh-Huấn một hai tách mình.

Chữ rằng sinh sự sự sinh,

Làm hư Đẩu-Cuộc Thất-Tinh Long-Đồ.

20.- ĐÂY cũng tánh mờ hồ nên vội,

Trăm điều lo hả hối cho mau.

Than ôi! Chẳng xét vàng thau,

Bạ đâu nghe đó biết đau sự rồi.

Khen ai chẳng xét Thiên thời,

Thầy đà cạn tiếng nhắn lời cho NHƠN.

21.- PHÙNG, con nỡ lòng hờn việc cũ,

Lời Thầy khuyên con giữ con xem.

Nên hư con để yêm lìm,

Chẳng cầu ai biết, chẳng thèm ai hay.

Sao con chẳng xét đó đây,

Đầu mình phải đủ chơn tay mới thành.

22.- NHƠN tua giữ thinh danh làm trọng,

Thầy tin con nên dụng đã lâu.

Từ đây bỏ tánh cơ cầu,

Trăm điều nên xét trên đầu có TA.

Các điều lỗi trước Thầy tha,

Nhớ lời sáu bốn (64) hiệp hòa thì nên.

23.- CA dốc chí dựng nền Chơn-Lý,

Ráng coi chừng lũ quỉ kề hông,

Nửa tin mà nửa nên phòng,

Trời xa ma cận thật lòng hiểm nham.

Hiếm người triêu tứ mộ tam,

Lòng ma miệng Phật dốc đam lạc đường.

24.- LƯỢNG chắc dạ Thầy thương chi xiết,

Biết có Thầy nên quyết theo Thầy,

Thầy khuyên biết Đạo càng hay,

Hiệp tâm chung trí sum vầy mới cao.

Đạo thương khắp cả đồng bào,

Miệng lằng lưỡi mối chuốt bào đừng tin.

25.- Khuyên bốn trẻ giữ gìn lời dạy,

Đồng cùng nhau sửa vạy ra ngay.

Con ôi! Nam, Bắc, Đông, Tây,

Quỉ vương hiệp sức đêm ngày phá TA.

Nếu con tâm trí chẳng hòa,

Làm sao Đạo Cả của Cha cho thành.

26.- Thất-Đẩu-Cuộc tình hình đã hoại,

Vì AN, ĐÂY làm sái lịnh Thầy,

Chẳng cần đợi lịnh đợi ngày,

Vừa nghe bàn định chớp tay làm càng.

Con ôi! Quỉ kế đa đoan,

Lộn chen chút điển thấy tan hoang rồi.

27.- Ối thôi thôi! Việc rồi chẳng nói,

Nay Thầy lo việc mới giúp con,

Khuyên con lòng sắt dạ son,

Giúp Thầy chuyển Đạo cho tròn thỉ chung.

Nầy con CA, LƯỢNG, NHƠN, PHÙNG

Bốn con đồng ý chung cùng nhau chăng?

28.- Hành Đại Đạo đừng cân sang trọng,

Cũng đừng lo nhà rộng chòi tranh.

Cân là: cân sự học hành,

So laø: so caùi chí thaønh ñoäng Thieân,

Cân là cân kiếp Thiêng-liêng

So người quĩ cụ Thần kiêng anh tài

29.- Trước dẫu có một hai vít tích

Khuyên con đừng chít mích nhau chi

Từ đây đường cả chung đi

Hiệp Tâm chung trí đừng nghi chuyện rồi

Cây xanh nhờ có nhiều chồi

Đạo nên nhờ có Thầy Trời giúp cho

30.- Một lời chót hỏi dò cho cạn

Ngọ thời mai thượng trạng Thầy xem

Khuyên con lớn nhỏ trọn niềm

Bốn tên một sớ phong niêm hẳn hòi

Bằng ai lòng một ý đôi

Có Thầy phú án Ngũ Lôi xét giùm


PHÙNG-NHƠN: hai con cứ theo vé thứ 29 của Thầy đã cho các con. Đạo gặp lúc chinh nghiêng rời rã, ấy cũng vì các con. Nay Thầy muốn hiệp các con của Thầy lại nên Thầy dùng sức bốn con. Đạo là một bài học, Thầy là người đặt bài, Đạo-Đồng là người chép bài. Thầy dùng cán viết của NHƠN, ngòi viết của PHÙNG, nghiên mực của LƯỢNG, tờ giấy của CA. Có bốn món ấy Thầy viết mới được, bằng thiếu một món Thầy làm sao viết được mà dạy ai? Kỳ An-Thiên Đại-Hội Thầy đã dùng như vậy, nền Đạo được thạnh phát, sau vì chừng các con rời rã, tuy ngoài mặt nói nói cười cười, nhưng trong lòng ai cũng tưởng mình có Thầy riêng của mình, vì vậy lâu nay biết bao nhiêu là “Thầy” giáng khắp nơi, mà nào có phải Thầy hoài, bởi lỗi ấy tại bốn con. Nay Thầy hiệp bốn con, Thầy không ép ai, suy cùng nghĩ cạn, mai nhằm Ngọ thời dưng sớ Thầy xem có đủ bốn con đứng tên, Tý thời sẽ cầu Thầy, có Đến-Hậu-Đồ-Kiển-Trung-Minh, có Quang Bản thay mặt cho Cầu-Kho, Chiếu thay mặt cho Phước-Long càng tốt; như bốn con không ưng thuận chung lo giúp Thầy, khỏi tái-cầu vô ích.

NHƠN, Bước đường học Đạo thể đăng sơn,

Muôn khổ ngàn gay chí chớ sờn,

Ai dạy lên non mà kiếm Phật,

Đừng nghe tiếng Giảng Nghé Đài Nhơn.

NHƠN, trong “Huỳnh-Đình” có câu:

“Học Đạo du đăng sơn, du thiệp thủy,

Du tẩu mả trương cung, du hành quân bố trận

Đương thâu kỳ phóng tâm, dưỡng kỳ hạo khí

Ác nhơn dục, tồn thiên lý…”

Đó, Thầy dạy “đăng sơn” là vậy. Con không chơi với bạn hiền nên làm sái lịnh Thầy, phải chi con hỏi Phùng thì đâu có đến đỗi: ý mã tâm viên. Mấy chữ nầy là chữ Thiên-cơ, ai ít tu khó được nghe giảng nhiều, sau con đừng vậy nữa… (Thăng)

—————————d&c—————————


Каталог: images
images -> Hướng dẫn sử dụng Dropbox Để sử dụng được Dropbox
images -> BÀi thuyết trình cách xáC ĐỊnh và chế ĐỘ pháp lý CỦa các vùng biển theo công ưỚc của liên hiệp quốc về luật biển năM 19821
images -> Céng hßa x· héi chñ nghÜa viÖt nam Độc lập tự do hạnh phúc
images -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
images -> Trung Tâm kt tc-đl-cl
images -> Số: 105/2008/QĐ-ttg CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
images -> ChuyêN ĐỀ ĐẠi số TỔ HỢP, XÁc suất kiến thức cơ bản Đại số tổ hợp
images -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học luật tp. HỒ chí minh dưƠng kim thế nguyên thủ TỤc phá SẢn các tổ chức tín dụng theo pháp luật việt nam
images -> Review of Condor, Sun Grid Engine and pbs

tải về 2.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương