VÀ PHẢN ĐỨC CHÍ TÔN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 25 tháng 5 Annam 1938 ( 9 giờ trưa ) [ĐCL34/52]
CÒN – Nghe Thầy xử tội :
Từ đây hết cãi canh, mưu sự
Mưu sự nhiều tội xử càng nhiều
Tại vì chưa dứt tự kiêu
Vậy nên Thầy chiếu, Luật Điều trị ngay
Con chớ trách rằng ai cản trở
Tại ỷ mình nên lỡ bước đường
Lỡ rồi phải chịu lương khương
Sanh lòng tà mỵ, mới vương tội hình
Con rán ngó lại mình cho kỹ
Xét cho rành từ thỉ, chí chung
Mấy khi con hứa với Phùng
Ngày nay đến kiếp Đại Đồng khó than
Trẻ chớ khá kêu oan, kêu ức
Án ghi rành do Luật Chí Công
Tội con vào kiếp Đại Đồng
Giao cho ác sát, canh phòng ngày, đêm
Mỗi ngày phạt thúc kềm thân thể
Hành xác con nứt nẻ, hao gầy
Tội nầy còn chỗ động lây
Một phe theo trẻ, cứ đây hành hình
Giao ngạ quỉ giữ gìn lũ đó
Mỗi ngày thường dòm ngó xét xem
Bữa ăn, giấc ngủ, việc làm
Mỗi điều hành khổ, sáu năm đọa đày
Hành tội đó đủ ngày, đủ tháng
Cho Luân Hồi vào nạn ma ranh
Sanh qua, tử lại khổ hình
Đủ rồi chuyển lại, mang hình giác mao
Kể từ đó, xiết bao thảm thíêt
Đà hết trông, hết biết việc người
Thầy nhìn thấy trẻ lụy rơi
Cũng vì ỷ sức chống Trời nên sa
Rày con hết trông Cha cứu độ
Đã mấy phen dạy dỗ ráo lời
Khuyên đừng tu giởn, tu chơi
Tại con không kể, lã lơi hại mình.
ĐƯỢC, nghe Thầy dặn : Án nầy giao cho Vi Hộ quì trước Lịnh Tòa đọc sau án của Tắc. Đọc rồi con biểu Chiêu Thánh đem Sổ Luân Hồi để trước bàn án (là mặt thạch tròn đó), rồi con cầm viết mực đen ghi tên 8 đứa đó vào Sổ Luân Hồi. Ghi rồi biểu Vi Hộ đứng dậy; rồi con ghi luôn Hậu, Đến, Tài, Xuân, Thoại cũng chung vào Sổ đó – Tài, Xuân Thầy cho nó Luân hồi ba kiếp vào cữa Bần Nhơn. Còn Thoại cũng ba kiếp vào hình bịnh khổ; ghi rồi con bước xuống cỡi áo Khai Thiên để nơi Ngọc Ỷ. Rồi con đội mão chứng đàn với CA đặng cúng thời Tý.
Còn án của Trưng để ngày 15 tháng 7 sẽ đọc. Ấy là Thầy cũng quá thương nên đình cho nó đó./-
—————————d&c—————————
Ngày 29 Tháng 5 Annam 1938 ( 4 giờ chiều ) [ĐCL34/53]
TRƯNG – Con nghe Thầy xử :
Trước Lịnh Tòa hội đủ
Chư Tiên Phật Thánh Thần
Xử tội Lê Văn TRƯNG
Nêu Lịnh Tòa tam nhựt
Á N :
Từ lúc trẻ bước ra tu niệm
Các lời nguyền con đếm thử coi
Nhiều khi con hứa hẵn hòi
Tại sao nay lại quên lời vậy con ?
Thầy cũng muốn cho tròn phận sự
Án ghi rồi còn đợi hồi tâm
Tại con không kể nên lầm
Ngày nay đáng tội, khó tầm về quê
Con ỷ giỏi lập phe, kết đảng
Dùng mưu phàm đặng cản đường tu
Không thương em dại quáng mù
Kiếm lời phỉnh gạt, quến rù cho đông
Lại chẳng kể, Luật Công là khác
Gây ra nhiều tội ác oan gia
Đặt điều đánh đổ Thánh Tòa
Tại vầy nên trẻ phải sa Luân hồi
Nay Thầy phạt, trọn đời khổ sở
Cho Luân hồi trả nợ trần gian
Chịu phần sừng đội, lông mang
Đủ hai mươi kiếp, hết toan làm Người
Án phê đủ các lời tội lỗi
Giao Hung thần, xả nội xét xem
Ngày đêm canh giữ thúc kềm
Đến ngày mãn số, sẽ đem Luân hồi.
Án nầy đọc sau án của TÚ; đọc rồi treo tại Lịnh Tòa, ba ngày đủ rồi, sẽ ghi vào Hắc Tịch./-
—————————d&c—————————
Ngày 22 Tháng 6 Annam 1938 (8 giờ Sáng) [ĐCL34/55]
TÚ – Nghe Thầy xử :
Nầy tội trẻ rõ ràng án tích
Trước Lịnh Toà Hắc Tịch nêu danh
Thọ phong con đã nguyện rành
Nay cơ chuyển Đạo, sao đành lại quên
Thầy còn chép tuổi tên rành rẻ
Tại dễ duôi không kể Luật Thầy
Ỷ mình khoe giõi nói hay
Không kiêng Hồng Thệ, tội nay đã đành
Trước Thầy nhắc con nhìn tội lỗi
Đặng mau lo tự hối theo Thầy
Tại vì chẳng rõ đường ngay
Nghe theo tà mỵ, nên nay chịu đày
Án kiêu ngạo coi Thầy quả rẻ
Dụng phàm tâm bác bẻ đủ điều
Tại vầy Chơn Thể phải tiêu
Luật Công xét rõ, án nêu Lịnh Tòa
Phạt bảy kiếp, làm ma vô chủ
Đặng hành hình trừ đủ tội xưa
Tại con lời nói không ngừa
Chư Thần ghi tội, đổ thừa đặng đâu
Hiện thời xử giảm thâu niên kỷ
Đặng đúng ngày ngạ quỉ kéo trì
Đem giam vào ngục A Tỳ
Chuyển luân bảy kiếp, hết về Ngôi xưa.
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn : Án nầy treo trước Lịnh Tòa ba ngày; kể từ ngày 12 tới 14. Đúng 12 giờ khuya đọc án rồi ghi tên vào Sổ Hắc Tịch - Trong khi đọc án, con phải đội áo Khai Thiên đứng trên Ngọc Ỷ - Trước Lịnh Tòa phải có Vi Hộ, Tinh Quân đứng hai bên hầu Lịnh – Đúng 11 giờ 30 chức sắc tựu đủ - Đúng 12 giờ chuông ba Cửu Trùng Đài đọc án; rồi đánh trống nhập đàn, cúng thời Tý.
Đàn nầy chức sắc mặc Đại Thiên Phục; đọc đủ 7 bài rồi đọc Lạy Thầy, Lạy Mẹ - Trong TNLĐ lên H.T.Đ làm lễ Chưởng Giáo. - Còn chức sắc Nam, Nữ quì đó đọc Tứ thánh; lạy rồi đứng dậy đọc bài Khương Thái Công năm Tân Vì; đọc rồi lạy; quì đó tiếp đọc Cầu siêu – Sám Hối, và bãi đàn./.
-LỄ THÀNH-
—————————d&c—————————
Ngày 7 Tháng 7 Nhuần 1938 (8 giờ tối) [ĐCL34/56]
TƯƠNG – Con nghe Thầy xử :
Thầy đình đãi cho lâu con xét
Đặng ngày sau con hết than phiền
Tại vì còn tánh tự chuyên
Không tuân rằng Luật tự nhiên của Trời
Trước Thầy đã ráo lời khuyên nhủ
Con chẳng màng tội cũ khó tiêu
Gây thêm tội mới rất nhiều
Nay Thầy tuyên án đủ điều trước, sau
Tội thứ nhứt, tự cao, tự đại
Tội thứ nhì, diểu hại người mê
Thứ ba, không kể lời thề
Lại quên Đất chở, Trời che phận mình
Xúi kẻ dại, chống kình Chơn Lý
Cậy khôn lanh đố kỵ người Hiền
Đó là tội trẻ nghịch Thiên
Không tuân cơ Đạo, mối giềng tại đây
Con dám nói Lạy Thầy Chúa Tể
Là của Phùng đặt để gạt người
Con coi rẻ qúa tuồng chơi
Tại vầy nên trẻ dễ dui khi Thầy
Trước ghi án, đọa đày tại thế
Chịu ốm đau trầm trệ thân hình
Cuối cùng xác thịt hôi tanh
Ruồi bu, kiến đục; tội hành làm gương
Chịu nhiều nỗi, tai ương thảm thiết
Thầy nói cho con biết liệu lần
Chừng hồn lìa khỏi xác thân
Đầu thai vào chỗ cơ bần đắng cay
Đặng đền tội, ngày nay sung sướng
Cậy kiêu xa nói bướng không chừa
Đày thân lao lực cho vừa
Chuyển luân bảy kiếp, trọn mười bảy năm
Chừng mãn án hồi tâm sám hối
Thầy cũng cho đặng nối tu hành
Bằng mê phàm tục cãi canh
Quen theo nết cũ, tội hành bằng hai.
Án nầy viết ra gởi cho TƯƠNG nó hay. Con phải treo tại Đông lang- Tây lang; cùng là gởi các nơi khác.
Thầy định cho đến ngày Trung thu 15 tháng 8 - Mười hai giờ khuya đọc án - Khi đọc phải có Chủ Tam Hồn đội áo Khai Thiên đứng trên Ngọc Ỷ đặng chứng đàn - Phần đọc thì giao cho Bửu An Thiên; đọc rồi ghi vào Hắc Tịch tại bàn án đó - Đọc rồi nhập đàn, cúng thời Tý.
- THĂNG -
—————————d&c—————————
VII.
ĐẠO TRÀNG VÀ NỮ PHÁI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 12 tháng hai annam năm 1938 (5 giờ sáng) [ĐCL34/58]
Thầy chào các con – Các con nghe Thầy hỏi :
Nầy,
1.- Các con nói làm Lành, lánh dữ
Cách làm Lành, lánh dữ ra sao ?
Dữ là tự đắc - tự cao
Ỷ khôn, ỷ mạnh, ỷ giàu, ỷ sang
2.- Khinh khi kẻ cơ hàn, quê dốt
Tưởng cho mình rằng tột bực cao
Không thương cốt nhục đồng bào
Cứ lo xúi giục, giết nhau mới kỳ
3.- Còn nỗi dữ, dám khi Trời Phật
Dụng phàm ngôn bác luật Thiên Điều
Khoe mình kiêu ngạo, tự kiêu
Cản đường tu niệm, đặng bêu danh mình
4,- Đây Thầy chỉ làm Lành cho biết
Lành là do Lẽ Thịêt hằng ngày
Một lời chẳng dám nói sai
Trước sau như một, không phai lợt màu
5.- Lòng chẳng muốn ham giàu, phụ khó
Giữ mực trung vậy đó cho rành
Không màng chác lợi khoe danh
Hằng lo bổn phận, chẳng tranh theo đời
6.- Lảm được vậy trọn đời đừng sái
Khỏi bợn nhơ mới phải bực Lành
Thầy nhìn cả thảy chúng sanh
Nói thì biết nói, dữ lành chưa thông
7.- Cũng có đứa dày công tìm hỏi
Thương hại cho chỗ hỏi không nhằm
Hỏi lầm mấy kẻ độc thâm
Bày mưu phỉnh gạt hại thầm xiết bao
8.- Thầy chỉ đó, trước sau cạn tỏ
Việc dữ, lành cho rõ kẽo lầm
Đừng khoe tu niệm nhiều năm
Không thông lành, dữ; nhiều năm tội nhiều
9.- Chốn địa ngục dập dìu tội lỗi
Cũng là do tại chỗ dữ, lành
Tu nhiều mà tội lại sanh
Là do tại chỗ, cãi canh không nhằm
10.- Con nào muốn khỏi lầm chỗ đó
Lời Thầy khuyên chịu khó ghi lòng
Ghi rồi phải nhớ làm xong
Làm xong được vậy, thì mong trọn lành
11.- Đứa nào ỷ rằng mình cao thượng
Lời Thầy khuyên tự cượng chẳng màng
Sa vào nghịch khổ, đừng than
Dữ làm dữ trả, là đàng tự nhiên./-
—————————d&c—————————
Ngày 15 Tháng 4 Annam 1938 (Mậu Dần) [ĐCL34/60]
1.- Nầy Ngọc Bích con nghe Thầy dặn
Đừng luận chi Chay, Mặn sanh rầy
Biết rằng Đạo phải ăn chay
Song mình cũng phải chia hai có phần
2.- Việc chay, mặn là phần vật chất
Còn việc Tu là Luật nhà Thiền
Xưa, nay việc đó lưu truyền
Hiện giờ Chơn Lý, diệu huyền khác hơn
3.- Việc chay, mặn tùy nhơn, tùy tánh
Muốn tu hành sửa Hạnh, ăn chay
Ít, nhiều cũng phải có ngày
Bỏ qua không buộc, mặn hoài phải hư
4.- Con dòm thấy Minh Sư – Minh Thiện
Mấy năm trời luận, biện ăn chay
Tính năm, tính tháng, tính ngày
Mà trong Đạo Lý, một bài chưa thông
5.- Con thiệt cũng có công tìm học
Nên làm bài học hỏi cạn lời
Thầy khen mà dặn một lời
Châu Thiên Thầy lập cho đời ngưỡng triêm
6.- Trẻ rán xét, rán xem cho kỹ
Đặng tìm đường Chơn Lý mà phăng
Dư muôn năm mới một lần
Tự con hỏi lại, muốn gần hay xa./.
—————————d&c—————————
Ngày 5 Tháng 7 Nhuần 1938 ( 5 giờ chiều) [ĐCL34/61]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn :
Con sửa mấy câu thi của MẪN nó làm đó. Sửa lại cho đúng Lý rồi giao cho CA nó xét. Như nó đồng ý kiến thì nó in ra cho Đạo làm gương; bằng không thì tự ý nó, Thầy không nỡ buộc.
CON SỬA ĐI CÓ THẦY CHỨNG CHO :
Mấy bài nầy của Giáo Hửu Thượng MẪN Thanh giải trong 2 câu Thánh Huấn Chánh Tà Yếu Lý.
Quyền tính kế tuyên truyền trần thuyết
Lý tìm đường tịch diệt hư vô
Người làm đề đó mà luận giải ra, nên Thầy dạy sửa như vầy :
Nay Thầy chuyển đạo kỳ ba mới thấy rõ LÝ - QUYỀN phân biệt. Như ai muốn tìm cho rõ Lý, thì phải tìm tới chỗ Hư Vô Tịch Diệt là Lý đương nhiên – Lý là thiệt Lý chơn truyền trong khuôn Hiệp Nhứt mới thiệt là Lý của Trời - Người học đạo phải thông trong đó có đủ Chơn Tâm, Chơn Tánh, Chơn Thể, Chơn Hồn, Chơn Linh, Chơn Lý. Cả thảy vô hình mà từ xưa nay hằng có. Nên gọi là Chơn Như
THI :
Chơn Như Thể Tánh Tâm hiệp Một
Một Xác Hồn thấy tột chỗ Linh
Linh đây đặng Xác thấy nhìn
Nhìn Hồn thấy rõ chỗ Linh thiệt Trời.
Thầy thường dạy Ta, Người hiệp Một
Một nầy là một Lý, một Nguồn
Nguồn trong gọi Chủ Tam Hồn
Tam Hồn qui Một, bảo tồn Đạo Chơn.
Chủ Tam Hồn là khuôn Chơn Lý; chỗ nầy là chỗ Hư Vô Khai Thiên không khí; vận chuyển tuần huờn. Có sanh, có hóa. Có biến, có an. Có dời, có đổi cũng tại chỗ nầy – Nay đến thời kỳ Máy Tạo chuyển xây, cơ Trời hiệp Nhứt là hiệp nhứt với Đức Tin - Nếu đức tin không vững khó trông thấy được chỗ nầy – Nương bút thần dặn trẻ ra đây, nhờ Đại Đức vưng Thầy xét lại.
ĐƯỢC con giao cho CA rồi biểu nó cũng phải trả hết lại cho MẪN, nó coi đặng nó xét./ - THĂNG –
—————————d&c—————————
Ngày 15 Tháng 7 Annam 1938 (10 giờ trưa) [ĐCL34/62]
THÁNH THẤT THỦ THỪA
ĐƯỢC con phải biểu Diêu, Dậu, Tôn, Khuê, Kiều, Được, Trượng. Trong 7 đứa nó giờ nầy phải để Tâm Không đặng Thầy phóng điễn cho nó. Nó phải biết rằng một ngày Thầy phóng điễn không dễ. Vì trong đó có đủ Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần đồng nhau ủng hộ cho Chơn Tánh của mỗi đứa. Thầy chọn đó, nếu nó còn vọng tâm thì hớt hỏng mà có tội là khác nữa. Vậy con biểu Tôn nói cho mấy đứa nó hay đi.
Con phải mặc Thiên phục đặng Lạy Thầy rồi dự đạo tràng cho Thầy phóng điễn cho chúng nó. - Nay Thầy cũng vui lòng cho chúng nó một bài Đạo đặng chúng nó học cho vui lòng ;
Nầy Nam, Nữ đạo tràng cả thảy
Có đứa nào trọn phải hay chưa ?
Đứa nào còn tánh hỏng hờ
Nên Thầy hỏi trước ráng ngừa nghe con
Còn những đứa khôn khôn, dại dại
Thầy quá thương mang hại lúc nầy
Các con có mặt tại đây
Đây là Thầy ngự dẫn bầy con ngu
Tuy đã biết là ngu, là dốt
Biết sợ Thầy ngu, dốt cũng nên
Thầy khuyên một dạ cho bền
Đặng lo bồi đắp vững nền Chơn Tu
Con chớ tưởng mình ngu là thẹn
Chỗ thẹn là chỗ thẹn với người
Dại ngu mà Đạo tốt tươi
Là ngu với Đạo, chớ đời nào ngu
Lời Thầy dạy con tua xét kỹ
Chớ tưởng rằng thô bỉ mà buồn
Ráng cần lo học cho thông
Có ngày sẽ đặng bảng phong tên đề
Mặc tình kẻ khen, chê ngạo báng
Thầy khuyên con khá ráng theo Thầy
Dầu thương, dầu ghét hội nầy
Các con dứt đặng, gần Thầy mới vui
Các trẻ ráng tới lui Tòa Thánh
Đặng thúc kềm sửa hạnh cho quen
Chớ nên giải đãi than phiền
Làm sao cho trọn, lời nguyền buổi xưa./-
ĐƯỢC, con đọc cho chúng nó nghe, rồi biểu chúng nó cúi đầu trọn Đạo tràng tỏ dấu kĩnh thành – Con sửa soạn đi đi. -THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngaøy 12 Thaùng 7 Annam 1938 (4 giờ khuya) [ĐCL34/63]
DIÊU cung tường Ngọc bích
TRÌ mãn vọng cao kiên
THÁNH Tiên Phàm hữu hạn
MẪU tử niệm chơn truyền
Nầy các con Nữ phái có mặt tại Tòa Thánh rán nghe Mẹ hỏi:
Nầy các trẻ có duyên may gặp
Thì phải lo học tập hằng ngày
Học hành càng mới, mới hay
Sao chưa thấy mới, cũ hoài vậy con
Lòng Đức Mẹ thon von thảm thiết
Thấy các con chưa thiệt một lòng
Đọc bài nhiều đứa chưa thông
Phần đông tâm, tánh lại không chỗ hòa
Các con cũng vào, ra Tòa thánh
Mà sao chưa thấy hạnh khiêm từ
Mơ màng giả cuộc nhàn cư
Mẹ nhìn thấy rõ, nết hư buộc ràng
Con phải nhớ Mẹ than mấy lúc
Cũng vì con đấm tục mê trần
Chẳng màng châu thể, ngọc thân
Miễn cho xác thịt, vui mừng là hơn
Con nhớ lại trong cơn rắc rối
Tại vì đâu nên mới chia lìa
Cũng vì nay nọ, mai kia
Cũng vì ham muốn, đảng phe lợi quyền
Mẹ thường nhắc gặp duyên phải ráng
Sao các con quyết đoán chưa rành
Hiện giờ chưa dứt cãi canh
Ngày nào rõ đặng, mối manh Đạo Trời
Mẹ hết sức cạn lời khuyên nhủ
Khuyên các con ráng phủi tục phàm
Tu hành đạo đức phải ham
Biết ham đạo đức, thì tham mới chừa
Muốn dứt đặng đừng ưa sự quấy
Sự quấy là con thấy hằng ngày
Các điều gây gổ, đắng cay
Tiếng cao, tiếng thấp; dỡ hay, nhạo cười
Nếu không dứt các lời kình chống
Làm sao ngăn lượn sóng phong trào
Tinh thần tại đó mà hao
Các con không rõ, đua nhau giởn hoài
Vì thương trẻ kiếp đời tân khổ
Dạy con tu tránh chỗ buộc ràng
Con nào muốn đặng thân an
Ráng nghe lời Mẹ, bảo toàn lấy thân
Con nào muốn vui mừng theo tục
Thì phải cam khổ nhọc vào mình
Mẹ thương Mẹ cũng đứng nhìn
Hết trông chi cứu, tội tình các con
Vì muốn trẻ vuông tròn sau trước
Giáng Thiên Đài hỏi trước, dặn sau
Nữ, Nam chẳng luận con nào
Nên hư cũng đó, ra vào cũng đây
Biết Thầy dạy sợ Thầy mới phải
Biết sợ Thầy, đừng cãi lời Thầy
Mấy khi gặp gỡ như vầy
Các con nghi nghị, hết ngày Mẹ trông.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA rồi con trở về H.T. Đ Vô Vi vì có Chư Thần trông đợi.
Con nhớ dặn CA biểu Hương Anh ngày Đạo tràng tới đây, nó phải đứng ra đọc giữa Đạo Tràng rồi giảng cho Chị, Em nó nghe; trong đó có Thầy giúp cho. Còn con đến ngày 17 phải ra đặng hầu Thầy dạy việc./-
- THĂNG -
—————————d&c—————————
Ngày 18 Tháng 3 Annam 1938 (7 giờ tối) [ĐCL34/65]
ĐƯỢC, nay ái nữ của con nó xin Thầy cho phép nó giáng bút khuyên Mẹ của nó. Vậy con vui lòng chấp bút hay không ?
- Bạch : Con nghe theo lời Thầy.
- Ái nữ LÊ THỊ ĐOAN trước lạy Thầy, sau kính mừng Cha, Mẹ cùng hai em cho được vui vẻ
Con xin tỏ lời thưa cho Mẹ rõ :
1.- Nay Ái Nữ đàn tiền giáng bút
Xin Mẫu thân chớ chút ưu phiền
Cha vì trước có nhân duyên
Vậy nên phải lãnh mối giềng ngày nay
2.- Con tuy cách gần hai năm vậy
Việc gia đình thường thấy Mẹ than
Trước sau em dại mơ màng
Cha lo việc Đạo, gia đàng vắng tanh
3.- Đã biết vậy con đành vui dạ
Vì cơ Trời trước đã định phân
Con tuy chưa được trọn phần
Nhờ ơn Cha Mẹ, cũng gần Chơn Như
4.- Nay có Lịnh Đại Từ sắc chỉ
Nữ Phước Thần hoan hỹ giúp con
Đặng lo tế độ cho tròn
Đến ngày hiệp nhứt, bảo tồn Mẹ Cha
5.- Ngày tháng lụn ngựa qua cữa hẽm
Mẹ bớt lo, bớt đếm chuyện đời
Tu hành may được thảnh thơi
Việc đời là việc, đổi dời nhố nhăn
6.- Con vì cũng có căn, có kiếp
Chịu đọa trần đủ kiếp con về
Nay vì thấy Mẹ ủ ê
Giáng đàn khuyên giải, trọn bề với Cha
7.- Đầu cúi lạy lui ra khỏi bút
Nhìn Mẹ Cha nước mắt nhỏ đầy
Mẹ ôi ! Còn một kỳ nầy
Nếu Cha trễ bước Luật Thầy khó dung./.
—————————d&c—————————
Ngày 14 Tháng 6 Annam 1938 ( 11 giờ trưa ) [ĐCL34/67]
Trước Hiệp Thiên Đài, kính lạy Đức Chí Tôn, Đức Mẹ, Đức Chưởng Giáo Thiên Tôn, cho phép con nương điễn Hàng Long, đặng tỏ lời hơn thiệt cho Cha, Mẹ con tường.
Sau nầy tôi xin ra mắt Đức Hàng Long, cho phép tôi nương bút.
Nay con là TRIỆU THỊ DƯ
Giáng đàn phân tỏ thịêt hư cho tường
Xin Từ Mẫu bớt thương, bớt nhớ
Phần của con mãn số đọa trần
May nhờ Từ Phụ ban ân
Cho con theo giúp Phước Thần lập công
Cha cùng Mẹ, đừng trông, đừng đởi
Quên tu hành thêm tội cho con
Con khuyên Cha,Mẹ lo tròn
Công phu, công quả đặng bòn phước thêm
Con thấy Mẹ, ngày đêm than thở
Lại có khi dám trở trách thầm
Làm cho con qúa thương tâm
Sợ Thầy bắt tội, trách thầm oan ưng
Trước Thầy định can phần con biết
Mẹ với Cha cứ quyết kêu nài
Thầy cho con giáng tại đây
Nương Thiên Đài bút, giờ nầy gặp Cha
Con thưa thiệt cùng Cha với Mẹ
Chết sống nầy là lẽ cố nhiên
Từ nay xin bớt ưu phiền
Đặng lo tu niệm, phĩ nguyền lòng con
Con phải xử cho tròn chữ Hiếu
Ơn Mẹ Cha còn thiếu con đền
Cạn lời Cha Mẹ chớ quên
Ráng lo hành đạo, đặng lên Liêng Đài
Người ở thế, ít ai đặng tới
Tại vì mê nên mới luân trầm
Công dày Cha Mẹ mấy năm
Nếu nay trễ bước, khó tầm Ngôi xưa
Giờ đã đúng Ngọ trưa hành lễ
Cúi Lạy Thầy đãnh lễ phụ thân
Xin Cha nói lại Mẹ mừng
Con cam chịu lỗi, Mẹ đừng trách con./.
—————————d&c—————————
Ngày 26 Tháng 6 Annam 1938 [ĐCL34/68]
Vưng Lịnh Đức Sư Tôn dạy sửa lại cho NGUƠN ở Sa đéc. Bài dạy TAM TÙNG, TỨ ĐỨC
Thấp hèn cẩn thận quê môn
Rán nghe lời dạy bảo tồn Chơn Thân
Tam Kỳ rộng mở hồng ân
Muốn nên Nữ Liệt, gắng công học hành
Giữ câu chí kĩnh, chí thành
TAM TÙNG, TỨ ĐỨC tại mình đâu xa
Xử sao cho được ôn hòa
Mới là phải mặt con nhà nữ lưu
Được vầy mới rạng, mới vui
Gần ưa, xa mến tới lui tập tành
Mẹ Cha nghĩa trọng sanh thành
Tại gia TÙNG PHỤ, phải rành thần hôn
Bữa ăn, giấc ngủ lo tròn
Trãi tâm báo bổ, sắt son một lòng
Xuất gia phận gái NHỊ TÙNG
Tiết trinh cho trọn, Đạo chồng mới vui
Công Cô, tức nhược đền bồi
Hai bên cho trọn, khỏi lời biến sanh
Chẳng may Chồng thác đã đành
Thì lo vun quén, cội lành mát êm
Gia đình dạy dỗ cẩn nghiêm
Nên danh Sương Phụ, trọn niềm TÙNG TAM
Công là chữ nghệ phải làm
Vá may, thêu dệt cho kham phận mình
Rảnh rang ráng tập công trình
Học thêm chữ nghĩa, đặng gìn giữ thân
Ngôn là lời nói có chừng
Chớ nên lêu lỏng, cũng đừng tự kiêu
Nói ra trước phải độ điều
Bướm ong hoa nguyệt, ít nhiều tại đây
Dung là đi, đứng thẳng ngay
Châu thân sạch sẻ, chớ bày điểm tô
Phải cho biết phận liểu bồ
Nết na cho vẹn, phải dò, phải ngăn
Hạnh là giữ dạ trang bằng
Chớ nên tập tánh rộn ràng bôn chôn
Thấp hèn cẩn thận quê môn
Rán nghe lời dạy bảo tồn Chơn thân - THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 29 Tháng 6 Annam 1938 ( 9 giờ Trưa ) [ĐCL34/70]
PHỔ đức truyền chơn ngữ
ĐÀ diệu tán Vô Vi
Giáng lâm đàn hối nhựt
Bút tả dụng ư kỳ
Trước Bửu Điện kính Lạy Thầy, Đức Mẹ; sau chào Đức Hàng Long Chơn Tánh, Bửu An Thiên.
Tôi xin nương bút tỏ lời hơn thiệt cùng Chị em với hai con của tôi.
- Tôi cũng vui lòng chào Đại Đức Nương Nương.
Nầy lời thiếp hèn quê than thở
Xin chị em nhắc nhỡ, thúc kềm
Bớt điều cay đắng nấu nêm
Nhiều khi mặn, lạc rồi sanh sự buồn
Bần Đạo thấy lụy tuông không dứt
Nhìn chị em chưa được ôn hòa
Biết rằng con có Một Cha
Tại sao mà lại, nay ra nhiều lời
Hễ biết Đạo sợ Trời mới phải
Để có đâu canh cãi cho rầy
Hiện giờ Thầy sẵn ngự đây
Chị em không kể, tội nầy ai mang
Thầy đã định rõ ràng trước án
Khương Thái Công thọ mạng thay Trời
Chị em còn tánh dễ ngươi
Thiếp e cho uổng, kiếp đời gian nan
Còn hai trẻ đừng than khó nhọc
Phải gắng công lo học cho rành
Mẹ vì thương trẻ ấu sanh
Xin Người ra chỉ mối manh con tường
Hai con nhớ nghĩa phương làm trọng
Đừng dễ dui dục vọng đảo lừa
Kìa Trời đương sớm, rồi trưa
Mẹ xem hai trẻ, còn chưa để lòng
Lo sao tránh khỏi vòng tục lụy
Nếu vương mang ắt hại cho mình
Rảnh giờ con rán học kinh
Câu nào không rõ, cứ trình hỏi ngay
Mẹ giáng bút một bài dặn trẻ
Chớ cãi canh ắt trễ ngày, giờ
Trễ rồi con phải ngáo ngơ
Ngáo ngơ là chỗ, bến bờ lạc xa
Đầu cúi lạy, lui ra Tòa Thánh
Về Phổ Đà lo tính Ngọ thời
Chị em, lớn nhỏ y lời
Tựu cho đủ mặt, trong giờ Ngọ đây
Trên Đức Mẹ an bày thứ lớp
Dưới chị em hòa hiệp cho phù
Muốn cho trọn tiếng người tu
Ráng lo học hỏi, trí ngu cũng thành./.
—————————d&c—————————
Ngày 8 Tháng 7 Annam 1938 (3 giờ chiều) [ĐCL34/71]
ĐƯỢC con nghe Thầy dặn :
Con phải biểu CA nó đem tên CAO THỊ HÒA (Sa Đéc) đó vào Sổ Cầu Phong đi. Vì Thầy phong cho nó làm Giáo Hửu. Vậy CA nó phải xướng danh đặng cho HÒA nó hay; nó lo sắm đồ bái mạng cho kịp trong Mùa Thu nầy. Chớ nên bê trễ mà phải chịu lỡ cơ.
HÒA, nay con biết nghe lời Mẹ cũng mừng cho con. Song con phải ráng lo học cho rành, đặng có ngày con sẽ ra gíup đạo mà lo dìu dắt chị em bên Nữ phái. Vậy con nghe Mẹ họa đây mà tự xét nghe con.
HỌA CHỮ ĐẦU :
Cúi cầu Đức Mẹ xin thương
Dắt con khờ dại, khỏi vương lưới trần
Lòng con mộ Đạo vong bần
Nghe theo lời dạy tập lần tánh chơn
Mậu Dần Thầy mở Đại Ân
Thầy cho Người chỉ nguồn cơn mới tường
May thay hưởng đặng thái bường
Kêu nhau trở lại Đụnh Tường một nơi
Ngày nay mới rõ Đạo Trời
Mắt xem thấy rõ, trọn lời của Cha
Học hành giữ dạ trác ma
Thất tình đạo đức hóa ra việc buồn
Mấy lần sa hố, lạc truông
Dạy con phải nhớ, chớ bôn chôn hoài
Ban ơn dịêu bút Linh Đài
Giáng lâm đàn nội, chỉ bày thiệt hơn
Lập xong công quả mựa sờn
Trở day phải chịu; giận hờn phải quên
Tánh xưa rán giữ cho bền
Thất ngôn vọng tưởng khó gìn giữ thân
Cữa Không, cữa Sắc vô ngằn
Trau duyên Đạo Đức, rán cần kệ kinh
Kiếp đời nương xác, mượn hình
Vậy nên phải nhớ, lại mình là ai
Một đời ngắn ngủi không dài
Tánh tâm chẳng hiệp, đọa đày liên miên
Cúi đầu Đức Mẹ xin thương
Dắt con khờ dại, khỏi vương lưới trần.
HÒA, con coi đó mà xét mình như chỗ nào không rõ thì con chịu khó hỏi lại, có người chỉ cho./.
—————————d&c—————————
Ngày 25 Tháng 7 Annam 1938 ( 2 giờ khuya ) [ĐCL34/73]
ĐƯỢC, Thầy cho phép con sửa bài của NHÂM – Trong đó có Thầy giúp cho.
Bài nầy lấy theo ý kiến trong bài xướng danh hiệu của Thầy nơi quyển Thánh Huấn số 6 – trương 21………. lấy đó rồi định tâm viết ra bài nầy
HỌA CHỮ ĐẦU.
NGỌC báu dành trao Thợ khéo giồi
HOÀNG toàn danh dự đến cao ngôi
THƯỢNG Thiên đâu phụ người Tâm đạo
ĐẾ chiếm truyền ban, dạy cứu đời
Đây con xin lấy Lý trong đó mà hoạ ra một bài học Đạo:
Nghe Từ Phụ Ngọc Kinh đành phế
Giáng phàm gian lo tế độ đời
Con nghe Lịnh phán ráo lời
Con nguyền theo Đạo trọn đời tu thân
Trước phải trọng Tứ Ân làm gốc
Sau gìn lòng Thận độc Thân châm
Nhờ ơn chỉ dẫn khỏi lầm
Con nương theo đó, đặng tầm đường ngay
Chủ Tam Hồn ngày nay hiệp đủ
Lịnh Thầy sai gồm đủ mối giềng
Con nhờ có chút nhơn duyên
Ơn Thầy ân xá, Đạo truyền kỳ ba
Dụng Đuốc Huệ, dắt qua Tam Tiểu
Chủ Tam Hồn dạy biểu hằng ngày
Lần lần độ khắp Đông, Tây
Độ cho qui hiệp Ngọc Đài Chơn Linh
Con nhờ đó tự mình sám hối
Cúi Lạy Thầy xá tội con nhờ
Thấp hèn phận gái ngây thơ
Mong ơn giáo dục, rõ cơ Đạo Mầu.
ĐƯỢC, con sửa rồi giao hết cho CA nó xét; đặng sau nó in vào Đuốc Chơn Lý./-
—————————d&c—————————
VII.
THÁNH HUẤN DẠY ĐẠO VÀ LỄ NGHI TRẬT TỰ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 13 Tháng 6 Năm 1938 (9 giờ trưa ) [ĐCL34/75]
ĐƯỢC, con phải nói cho CHIẾU, LÊ, THÀNH, RỢ, QUẢN; trong 5 đứa nó là 5 Vị Thiên sư; ấy là 5 Vị Thần của Thầy để sai khiến. Chúng nó phải coi Thầy làm trọng; chớ nên làm thói lã lơi, nay vầy mai khác. Chúng nó chưa hiểu thấu cho hết Lý Huyền Vi Bí Mật của Thầy. Chúng nó cứ tư tưởng có một điều Đạo Luật, mà không rõ thấu Chơn Truyền; thành ra biết đầu mà chẳng biết đuôi là vậy đó. Hiện nay Đạo chuyển đủ 3 kỳ; gom lại còn biết bao nhiêu là Điều Luật. Vậy mà nó hỏi lại coi có ai giữ trọn hay chưa. Tại vậy nên thời kỳ nầy, Thầy không cho Luật nào khác nữa. Hễ tới đâu, Thầy dạy tới đó; đứa nào nghe thì được; đứa nào nghi thì hỏng.
Mỗi lần Thầy ban Luật ra, thì mấy đứa lớn ỷ quyền che lấp việc lỗi của mình. Mấy đứa nhỏ lại cãi canh, bác bẻ. Có khi thừa dịp của Thầy mà thêm, bớt là khác nữa.
Vậy nay Thầy nói cho năm đứa nó hay, mỗi khi Thầy dạy có việc nào ngoài Ngũ Giới, Tam Qui hay không ? Còn việc nhiệm dụng thường hành, thì đều có nghĩa trong trật tự. Từ nay mấy đứa nó phải lo bổn phận cho tròn; đặng có ngày lãnh một vai tuồng to tác cho khỏi hỗ với Thầy là đủ. Chớ nó cứ biếng lười thì bảo sao cho nên việc. Còn Luật lệ thì đã có sẵn rồi, tới đâu Thầy chỉ tới đó. Có khó chi mà phải lo, phải đợi. Thầy nói đây cho mấy đứa nó rồi; những mấy đứa bị án đó là những đứa cãi Luật của Thầy; mấy đứa ráng coi theo đó mà xét mình./. -THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 2 Tháng 7 Annam 1938 (3 giờ chiều) [ĐCL34/76]
ĐƯỢC, Con nghe Thầy hỏi :
Nay con viết bài đó cho chúng nó học. Song con có hiểu nghĩa vắn tắt ra sao không ? Con trả lời đi..
- Bạch : Việc đó con tính chưa ra, nhờ ơn Thầy dạy
biểu cho con rõ; đặng dạy lại cho anh em, chị em.
Đường Chơn Lý là đường chung hiệp
Hiệp với Người rồi hiệp với Ta
Tánh, tâm hòa hiệp một nhà
Hiệp xong mới hiệp, Người Ta, Ta Người.
Nầy con, câu đó rất nên mắc mỏ lắm - Ấy là Bạch Thắng nó muốn thử cha nó, là KIÊN. Coi KIÊN giõi bực nào; té ra KIÊN nói thì nhiều mà không gom lại một Lý nào cho dễ hiểu, dễ làm. Tại vậy mà Bạch Thắng phải xa KIÊN là vậy đó. Nay Thầy thấy con cũng có lòng mến Đạo, nên Thầy chỉ cho con rõ rồi nói lại cho DIỆU nó nghe, rồi nói lại phái Nữ.
Nghĩa trong đó như vầy :
- Cái đường Chơn Lý là ở nơi Tâm cho thiệt Một. Một đó là một đường thẳng ngay; không quanh quẹo, chông gai. Từ xưa nay bực nào thành đạo, cũng nhờ nương theo đường đó mà đi cho cùng - Vậy con nghe Thầy giải đây. Chung hiệp là chung hiệp với ai ? Có phải là chung hiệp với người ta hay không. Người ta là quí; là người đó, ta đây, mà trong chỗ nó đó, chỗ giao thiệp đó hai đàng có đúng thiệt với nhau không ? Nếu đúng thiệt thì khỏi lo chi trắc trở. Mà hiện nay Thầy biểu con hỏi chúng nó như vậy - Người nào chịu đi tu - người nào chịu hồng thệ, người nào chịu học hành; còn người nào phá Đạo đây, cãi Trời đây, biếng nhác đây. Có phải là một người hay là hai người - Nếu như có một người mà sao lại ba, bốn Tâm Tánh không hòa nhau; thì còn trông chi gần với Đạo. Nếu muốn cho Hiệp Một, thì mình phải trước hiệp một với mình đi, rồi lo chi Trời xa – ma cận. Ấy là Thầy chỉ vắn tắt cho rành con hiểu rồi liệu lấy màn chế độ cho phù hạp theo thời thế thì có Thầy xét cho. Song con chớ nên nói bướng như Kiên, rồi sanh ra bất tiện nghe con.
Thôi con viết bài họa đó đi.
Cũng tại chúng sanh chưa thạo, cho nên tả đạo nó mới mê người là vậy đó – Mê người là nó nói mê cho nhiều người làm cho rộn trí, chớ kỳ thiệt có một người mà thôi; ngặt vì nhiều Tâm, nhiều Tánh đó; con hiểu chưa ?
-THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 8 Tháng 7 Annam 1938 ( 3 giờ chiều ) [ĐCL34/77]
Thái VÂN Thanh, nghe Thầy dạy :
Ớ nầy trẻ Thái VÂN Thanh
Rán nghe Thầy dạy, cho rành nghe con
Nhớ câu: Sanh trưởng, Vong tồn
Đời thương nên trọng vái Hồn, quải đơm
Ngày nay con muốn ra làm
Lễ nghi trật tự, cho nhầm đừng sai
Mẹ Cha sanh dưỡng ơn dày
Ông Bà đức nặng, sánh tài núi sông
Ái ân nhơn nghĩa vợ chồng
Cũng yêu, cũng mến; thương đồng chớ quên
Làm con biết Hiếu phải đền
Anh em tình nghĩa trọn niềm đừng sai
Quải đơm là để nhớ ngày
Chớ nên so sánh đặt bày rộn xăng
Nhớ ngày tổ đức, tôn công
Làm cho tron kĩnh, mới mong khỏi lầm
Khuyên đừng vội phóng vọng tâm
Làm ra rượu thịt, trách thầm giận nhau
Chớ nên so sánh nghèo, giàu
Chung nhau một dạ, bỏ màu trắng, đen
Làm cho thế tục ngợi khen
Anh em chẳng thuận, còn thêm tội nhiều
Thương con Thầy dạy đôi điều
Khuyên con muốn rõ, mọi điều hỏi CA
Gắng công lui tới Thánh Tòa
Thì con sẽ hiểu, mới là nên danh.
ĐƯỢC, con gởi cho VÂN nó coi. Còn trong câu kinh nó nói đó, như nó không hiểu nghĩa cho hết thi con biểu CA dạy nó; hoặc là con cũng nên nói cho nó rõ; kẽo nó buồn..
-THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 19 Tháng 7 Nhuần Annam 1938 ( 8 giờ trưa) [ĐCL34/78]
CHẮC, nghe Thầy dặn :
Tướng vô hình trông không mà thấy
Chỗ thấy nầy là thấy Tướng không
Tướng không, tướng sắc chẳng ñồng
Tướng là diệu tướng, ẩn trong tinh thần
Vô thinh xú, phải cần suy xét
Chỗ không nghe mà biết dạ người
Không kêu, nên gọi không lời
Mà trong thấu rõ, gọi lời u vi
Đạo nguyên hiệp, đồng qui ư nhứt
Phận người tu chịu cực mới thành
Muốn cho trọn phải, trọn lành
Phải thông Lý Một, tự mình nghiệm suy
Đạo có thể: đứng, đi, cười, nói
Phải cẩn nghiêm cho khỏi mỵ tà
Giữ gìn cho sạch trọn ba
Thể nầy gọi thể, người ta yêu vì
Thể gần lại Vô Vi mới đúng
Là tự nhiên hửu dụng cho đời
Trước sau chẳng đổi, chẳng dời
Không tên, không vật, mà đời ngợi khen
Một là Đạo Bổn Nguyên Tinh Nhứt
Hai là nhơn, dụng lực tu hành
Ba là thể hiệp hóa sanh
Ba rồi chung Một, là thành phân minh
Đã biết đạo, không hình là Đạo
Thể ra hình dạy đạo cho người
Vô Vi là Lý của Trời
Người tu rõ đặng, mọi lời thì nên
Thầy thấy trẻ có duyên về Đạo
Chỉ cho rành mối Đạo là Không
Có, Không cũng ở tại lòng
Làm cho trong sạch, mới phòng đặng không
Con nào còn tánh cuồng ngông
Khó trông gặp đặng, chỗ KHÔNG cậy nhờ
KHÔNG KHÔNG lặng lẻ như tờ
Không tầm mới đặng, cậy nhờ nơi trong.
Được, con gởi cho Chắc nó coi, rồi biểu nó trả bổn chánh lại. – Bài nầy con giao cho CA nó xét, rồi nó in ra cho con một bổn đặng để mà dạy đạo; còn một bổn thì cho nó./.
–THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 7 Tháng 8 Annam 1938 (6 giờ sáng) [ĐCL34/79]
ĐƯỢC, con sửa bài học cho Quản (Tân Hội Mỹ) đi, đặng trả lại cho nó. Con sửa đi, có Thầy giúp cho
S Ử A :
Đạo là hột giống của Thầy ban
Thầy đã rải gieo khắp Đạo tràng
Tràn dẩy khắp nơi, nơi biết Đạo
Đạo Mầu cơ Tạo, cứu cơ hàn
Cơ hàn vì tại ỷ nghinh ngang
Chẳng kể không ưa tật cãi bàn
Bàn cãi rẻ chia, lìa Lý Đạo
Lý rời xa ý, đó cơ hàn
Cơ hàn muốn khỏi trước thương thân
Thân hửu thân sanh, Đạo phải cần
Cần mẫn ráng lo cho trúng đạo
Đạo dường cơm gạo cứu cơ bần
Cơ bần vì tại chẳng nghe tuân
Tuân đặng nghe theo thấy chỗ mừng
Mừng biết chỗ ngu rồi tĩnh ngộ
Ngộ rồi lo độ bước theo lần
Theo lần cho đến bến từ huơng
Hương đó là quê cảnh Định Tường
Tường lập thưởng răn đền phước tộ
Tội cùng không tội nhớ con đường
Con đường Thầy lập ở lương tâm
Tâm ấy là nơi chỉ lạc lầm
Lầm lạc tại tâm mê muội đó
Đó là nơi đó, có mưu thầm
Mưu thầm nên chịu tội nầy đây
Đây sẵn lời khuyên cứu tội nầy
Nầy sớm xét suy cùng hối ngộ Ngộ cùng không ngộ tại câu nầy
Câu nầy Thầy chỉ chỗ ăn năn
Năng đó là năng phát huệ lần
Lần tới chỗ cao nhờ phát huệ
Huệ làm thêm huệ ráng ân cần
Ân cần mới đặng chữ Tân Dân
Dân mới là dân tránh nợ trần
Trần thế hỏi ai làm đặng mới
Mới rồi thêm mới ấy nên thân Nên thân người đặng để lâu đời
Đời muốn nên đời dạ chớ lơi
Lơi lỏng tại nơi người đã vọng
Vọng rồi sanh động rối cho đời
ĐƯỢC, con giao bài nầy lại cho QUẢN nó coi, rồi con hỏi thử coi Thầy sửa đó có bằng nó hay không. Như bằng nó, thì nó đem bài đó lên trình cho CA hay; đặng in lại để dành ngày sau đem vào Đuốc Chơn Lý. Còn như không bằng nó thì nó lo làm cho hơn đi.
–THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 8 Tháng 8 Annam 1938 ( 01 giờ trưa) [ĐCL34/81]
THƯỢNG hoằng khai thế đại
TRUNG hầu thọ ân thừa
NHỰT minh đàn đằc Lịnh
Giáng tố sự luân trầm
Trước Hiệp Thiên Đài Vô Vi, Lão lạy Thầy; sau kính chào Bửu An Thiên và Đức Hàng Long Chơn Tánh. Tỏ lòng mừng cho chức sắc, đạo hửu Nam, Nữ có mặt tại đàn giờ Dậu nầy.
Rán Nghe Thi :
Đời hổn độn bốn phương xao xuyến
Kiếp luân trầm quẩn luyến theo mình
Dương trần hỡi bạn tri thinh
Có ai nghe đặng, Lão trình tại đây
Kiếp Mạt kiếp vần xây bao phủ
Đời quên đời tại chỗ Tham, Si
Thở than, than thở ngán gì
Mà trong lòng Bạn rõ kỳ hạn chăng ?
Khen khẫu nghịêp nói năng hay giõi
Lời Lão đây thử hỏi ai rành
Kìa kìa sanh diệt, diệt sanh
Đó là một chỗ quẩn quanh Luân Hồi
Sao chẳng nhớ mấy lời nguyên lý
Kể đến nay chưa mấy năm trời
Ôi rồi nước chảy, gió trôi
Lòng ai cũng vẫn, tiếm ngôi là đầu
Mãng mơ ước toàn cầu tai hoạ
Mà chưa hay mình đọa cho mình
Lão không nỡ để đứng nhìn
Giáng đàn phân cạn đạo tình nhơn duyên
Ráng lo học cho siêng lá khá
Đặng có ngày luyện đá, vá Trời
Nầy nầy các Bạn Hiền ôi !
Tu không biết Đạo, giánh ngôi nỗi gì
Học chi thói vô nghì hại đức
Làm mang nhơ Trời Phật than phiền
Phật Trời đến đỗi chẳng yên
Người đây có lẽ, đảo điên không vừa
Chừa những thói vải thưa che Thánh
Kiếp Mậu Dần khó tránh đặng đâu
Phải lo sự Thiệt làm đầu
Ham chi giả dạng luận sầu đeo thân
Điễn linh diệu giờ phăng đã mãn
Cúi Lạy Thầy, già Bạn liền lui
Nhìn xem thấy rõ sụt sùi
Hồn qua, xác lại; đổi người nào hay.
Vậy Lão phiền cùng Chưởng Quản H.T. Đ xin đem bài nầy đọc tại Châu Thiên giờ Dậu, trong đó có Lão hầu nghe -
Vậy Lão xin kiếu./-
—————————d&c—————————
Ngày 12 Tháng 8 Annam 1938 (01 giờ khuya) [ĐCL34/83]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn :
Con chỉ đầu dây cho Vân nó rõ. Vì lúc ngày Thầy giáng mà dạy đạo thì Thầy dùng danh xưng là A Ă Â; trong đó Thầy có chỉ rành, Thầy giáng đàn mà dạy đạo lý, chớ không có dạy quốc sự hay là Thiên cơ. Từ đó đến nay nhiều tay ước vọng canh cãi mà làm cho mất cái mối dây đó đi; bởi vậy nên mới sanh ra nhiều điều trái ngược mà làm cho chia rẻ Đạo Trời; chinh nghiêng , chích mích nhau là tại quên 3 chữ A Ă Â đó. Trong chữ đó là Thầy nói ẩn nên chúng nó không hiểu. Nghĩa là Thầy chuyển đủ 3 lần là Tam Tiểu Thời Kỳ đó. Tuy là có khác dấu chút ít; chớ kỳ trung cũng một chữ A. Một chữ A đó là đầu dây đó; nên làm sái chữ A thì lạc mất đầu dây rồi đó. Nay Thầy qui về Tam Tiểu là nơi Tòa Thánh Định Tường, qui đủ Tam Hồn là A Ă Â đó. Trong đó gom lại một chữ A là Thầy, là Ngôi Độc Nhứt. Còn thể ra là cho biết áo trắng Khai Thiên gọi là Cửu Thiên Đại La Thân Phi Bạch Y là đó. Hễ muốn tầm cho ra mối giềng của Đạo thì phải đến đây mới tầm đặng; ấy là chỗ Thầy qui nhứt.
- Vậy con gởi cho nó coi đi./.
--------------------------------------------
Bài Thánh Huấn trên đây là lời của Thầy trả lời cái thơ sau nầy của Giáo hửu Ngọc VÂN Thanh ( Sa Đéc ).
Thánh thất Sagiang, le 24/9/1938
Tôi kính thăm Ngài CQ/C.T.Đ và thăm Ngài CQ/H.T.Đ và tôi xin thăm chung hết chức sắc lớn nhỏ Nam phái, nữ phái xin đặng chữ thăng bường.
Tôi xin gởi cái Châu tri số 55 của phe nghịch ở Tây Ninh. Họ nói nặng Thầy và nói xấu cho Ngài Chưởng Quản C.T.Đ theo đây, xin Quí Ngài liệu định. Em thấy cái Châu Tri nầy em nóng lòng quá lẽ.
Nay kính
Giáo Hửu Ngọc VÂN Thanh
—————————d&c—————————
Ngày 6 Tháng 9 Năm 1938 ( 4 giờ Chiều ) [ĐCL34/84]
ĐƯỢC, con chấp bút cho Thầy dạy con viết ra một bài gọi là “ HOAN BI THẾ CUỘC “đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu Thiên Đài, mà phán xét các điều tội, phước. Bài Như Vầy :
T H I :
1.- Châu Thiên Hiệp Trùng Đài cao vọi
Thầy giáng lâm Đại Hội Chư Thần
Xét rành tội, phước cân phân
Căn lành, kiếp đọa; thưởng răn đủ điều
2.- Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
Đứa thì ngày trước dày công
Có tu mà lại có trông chuyện xằng
3.- Có đứa muốn siêng năng làm phải
Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
Vì mê ma quỉ lã lơi
Tại vầy nên chẳng, biết Trời là đâu
4.- Phần quyết tính chơn tu thì ít
Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
Thầy xem thấy rõ đủ điều
Các nơi Động Phủ, thảy đều về tâu
5.- Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
Cả thảy nhìn vào án Ngũ Lôi
Cơ quan Máy Tạo sửa đời
Luân qua, chuyển lại; đổi dời Hồn thay
6.- Làm như vậy kịp ngày, giờ phán
Dựng nên đời bỏ oán, theo Hiền
Tuần huờn Tiên Hậu Nhị Thiên
Đồng chung qui lại Châu Thiên một bầu
7.- Ai sớm biết, hối đầu chung hiệp
Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
Nếu còn lòng dạ tư riêng
Đạo chưa tới Đạo, thấy liền yêu ma
8.- Chớ lầm tưởng Người Ta là vậy
Người Ta nhờ tin cậy Chủ Nhà
Chủ Nhà chẳng ở đâu xa
Là nơi Thầy định, gọi là Chủ Ông
9.- Chủ Ông đó là không đặng thấy
Còn thấy đây là thấy Cái Người
Cái Người nó ở phần Đời
Đời nên nhờ chỗ, sợ lời Chủ Ông
10.- Ta là chỗ Có, Không còn mất
Ta lo gìn sự thật cho người
Cái Người nương đó phá đời
Cái Ta lại cậy, cái Người là đây
11.- Thầy chỉ tắt, khoản nầy cho rõ
Trời có mây, Đời có Ta, Người
Trời cao, Đất rộng muôn đời
Đời quên Trời, Đất; hại người nào hay
12.- Trời cao vọi mây bay từng dưới
Người đối Ta, mây đối với Trời
Ta đây cũng tỷ như Người
Người như mây phủ, cho đời lập công
13.- Người phải rõ, phải thông mây, gió
Mây, gió là chỉ chỗ sang, hèn
Đủ màu xanh, đỏ, trắng, đen
Là nơi màu sắc, tục quen tranh giành
14.- Chẳng lo hiệp lập thành Chơn Lý
Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
Đọa đày khổ hạnh liên miên
Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy
15.- Người Ta hiệp là thương nòi giống
Chẳng giết nhau, đặng sống lâu dài
Người đây, Ta đó có Thầy
Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên xa
16.- Người muốn hĩêp, còn Ta không muốn
Là cái Ta, nó chống lại người
Ta nghe Người cãi viện lời
Đó là tại chỗ cái Người cự ta
17.- Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẳn
Mà chưa xong một khỏan Ta, Người
Chê bai, cười nói lã lơi
Vì vui, vì giận; quên Người, quên Ta
18.- Năm nầy đúng Kỳ ba Tam tiểu
Cả thế gian còn thiếu đoạn nầy
Tranh giành, ỷ giõi khoe hay
Mà quên trong đó, tao mầy hại nhau
19.- Tại không nhớ mầy, tao một giống
Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
Đã đành máu chảy, thây phơi
Nhìn coi thấy rõ, Đạo Người còn chi
2o.- Thầy chép để “HOAN, BI THẾ CUỘC”
Vui với buồn, lặn hụp sông mê
Đứa kêu, đứa rũ đề huề
Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau
21.- Sóng cuồn cuộn, đua nhau hỹ hã
Chừng mỏn hơi, thịt rã, xương chìm
Một lằn nước đục đỏ thêm
Khách trần ưa mến, kiếm đem về nhà
22.- Chác tội lỗi gầy ra qúa ngán
Luật Chí Công xử đoán thêm buồn
Tiếc gì mà chẳng chịu buông
Buộc đeo cho nặng, trầm luân lại mừng
23.- Thầy xem xét, oan ưng các lẽ
Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
Ngọc Kinh là cữa Thiên Đàng
Ít người dám đến, vén màn lại Cha
24.- Lại ưa đến trần sa, địa ngục
Kẻ đuổi xô, mạ nhục lại gần
Đổ thừa thân hửu, khổ thân
Khổ thân là chỗ, ân cần học tu
25.- Vì không rõ chữ Ngu, chữ Trí
Tại không thông chữ Lý, chữ Quyền,
Đổ thừa viện lẽ, ý riêng
Đặng cho vào Sổ Bìa Đen cho nhiều.
Bài nầy in ra gởi các nơi và cho Đạo học.
- THĂNG -
—————————d&c—————————
Ngày 1 Tháng 10 Annam 1938 (9 giờ trưa) [ĐCL34/88]
ĐƯỢC, con phải nói cho chức sắc cùng là đạo hửu Nam, Nữ tại đây nghe. Chúng nó phải biết rằng Đạo là Bác Ái; song phải hiểu nghĩa Bác ái là rộng thương, chớ kỳ trung cũng phải có Công bình mới mới được. Luật công bình đó là Luật bình quân của Thầy đã làm ra để mà chế trừ, gia giảm; tùy theo phước, tội ít nhiều của mỗi đứa mới có điều khuyên răn, thưởng phạt.
Vậy trong đó, đứa nào có hão tâm mà bố thí giúp nhau đặng sống chung mà hành đạo, đó là giúp Trời.
Các con ôi!! Cái tiếng giúp Trời đó các con mỗi đứa có nghe ai dám nói, dám khoe ra hay không. Duy có Thầy dám nói cho các con rõ; đặng vui lòng mà rán nhau lo làm âm chất, đặng chuộc tội xưa. Đứa nhiều, đứa ít đừng có thở than. Phải biết của đời đem ra giúp nhau đặng chung mà làm việc phải. Ấy gọi là các con là Thầy đó. Đó là nhờ có tiếng Thầy chỉ dạy, nên mới rõ thấu tiếng Đạo mà nói ra cho nhiều người thức tĩnh; nên gọi là con Trời thế hạ, thì buộc phải lo giúp đỡ chung nhau đến ngày kết cuộc, thì được tiếng Thầy khen cho là một Trời cả thảy đó. Còn Luật Công Bình là Luật của Thầy cầm, ít có ai mà thấu rõ cho hết đặng. Nhưng mà muốn rõ đặng cùng không, thì tự nơi mỗi đứa. Hễ để trọn lòng TIN cho nhầm Lý Thiên nhiên, thì tự nhiên ngó thấy.
Các con nghĩ cho tột đó coi: Nó cũng không có ở đâu xa, mà tại các con chưa rành sự Tu, nên phải nhọc lòng tìm kiếm cho hao phí tinh thần. Đây Thầy tỷ dụ cho các con nghe; tự bấy lâu nhiều đứa vì quá mê theo phường giả dối gạt cho lặn suối, trèo non; tiền hao của tốn, thân thể hao gầy mà cũng không than. Ấy có phải là quyết lòng tìm Đạo hay không; mà các con coi lại có ai rõ đặng tiếng đạo như Thầy dạy hiện giờ đây không ?
Ấy cũng là do nơi chưa rõ thấu chữ Bác ái, luật Công bình nên mới ra như thế.- Vậy thì các con xét lấy lời Thầy tỷ dụ đó mà chung nhau tế cấp hiện thời thì có lo chi là không thành đạo, mà các con đâu có mất tiếng con Trời thế hạ.
Đây Thầy chỉ cho các con những đứa rõ đạo ít nhiều rán coi, rán xét. Kìa nhiều đứa nó cũng tùy theo tiếng nói của Thầy cho, mà nó cũng xưng hô là con Trời thế hạ mà còn vướng tai nạn nhãn tiền; gia đình thê thảm, của tốn thêm. Vậy đó là con Trời mà cãi Trời là vậy đó; đó cũng là Công Bình đó, các con hiểu chưa. Nếu có đứa hiểu rồi thì rán khuyên nhau cho hết sức đặng ngày sau khỏi tiếng hiểm ngầm để hưởng riêng lời Thầy dạy dỗ, ấy cũng là Bác Ái đó. Các con mỗi đứa phải rán nhớ lời Thầy đã dặn; nếu cãi Thầy là Chơn Lý không chịu nghe theo để lấy ý riêng mà tự cượng, rủi có vương vào tội lỗi, Thầy khuyên đừng có kêu Trời làm chi cho nhọc, mà phải chịu đọa ngày sau. Vì con Trời mà làm cho Đời kiêu ngạo
Vậy Thầy giáng đàn đây, trước dạy, sau răn, khuyên nhủ các con đứng chung trong Trời Đất ráng nghe đó mà xét lấy mình; thì tự nhiên sẽ đặng hưởng điều khoái lạc tại đây là vậy đó.
ĐƯỢC, con đọc trước giờ hành lễ cho cả đàn nghe, rồi giao lại cho CA đặng nó in ra cho nhiều phát cho Đạo, Đời thức tĩnh. - Rồi con lo dạy Đạo tràng đặng trở về H.T. Đ Vô Vi cho sớm. Ngày nay phe nghịch nó tính đón con mà gây ác cảm – Như con có gặp, thì nhịn nó đi; đó là sự tốt./. -THĂNG-
—————————d&c—————————
IX
TỜ THAY MẶT CHO ÔNG CỬU TRÙNG ĐÀI ĐẶNG ĐI HÀNH ĐẠO TẠI TRUNG KỲ - VÀ TRONG NAM KỲ , LỤC TỈNH
TÒA THÁNH ĐỊNH TƯỜNG
TỜ GIAO QUYỀN [ĐCL34/90]
(Procuration)
Tôi là NGUYỄN VĂN CA, 63 tuổi. Thưởng thọ Tứ Đẳng Bội Tinh. Dân Lang Sa, Đốc Phủ Sứ hồi hưu. Chưởng Quản Tòa Thánh Định Tường Đạo Cao Đài (phái Chơn Lý) ở tại Làng Mỹ Phong, hạt Mỹ Tho. Giao trọn quyền cho Ông TRƯƠNG NGỌC DIÊU, 55 tuổi. Hàng Lâm Viện Thị Độc, cựu Phán Sự Tòa Bảo Hộ (Annam); cựu Quan Một Thông Ngôn các đạo binh Đông Dương ở Pháp – Phó Hội Trưởng Cựu Chiến sĩ Nam Kỳ. Hiện là một Vị cột rường của Đạo Cao Đài (Chơn Lý), chức Quyền Ngọc Đầu Sư ở tại Thủ Thừa, hạt Tân An; thay mặt cho tôi đến trước Lưỡng Triều Nam và Pháp ở Trung Kỳ, tùy theo Lệ Luật Trung Kỳ.
1.- Xin phép đi truyền bá Đạo Trời của Đức Chí Tôn truyền dạy, đã in ra Tạp Chí “Đuốc Chơn Lý” (Le Flambeau de la Vérité) Quan Toàn Quyền Đông Dương đà phê y cho ngày 23 tháng 3 năm 1935;
2.- Được đến trước Quan Nam và Pháp xin phép cất các Thánh thất trong địa phận Trung Kỳ và nhóm các Đạo Hửu nhập môn vào Thánh thất mới;
Mục đích của Đạo Cao Đài (phái Chơn Lý) dạy cho Nhơn Loại lánh dữ, làm lành; dưỡng tánh, tu tâm. Thương cả loài người bất luận là sắc da nào cũng như đều là Anh Em ruột rà, hiệp về Một Nhà thờ phụng Tứ Đại Thánh Nhơn : Đức Thích Ca, Lão Tử, Khổng Phu Tử và Da Tô, gom vào nguồn cội Đại Đạo; dạy người cần phải tuân Luật Nước và Luật Trời mà an cư lạc nghiệp. Cấm nhặt chẳng cho kẻ học đạo bàn cãi về Quốc Sự cùng là kích bác quan quyền và các Tôn giáo khác.
Tờ nầy làm ra 4 bản tại Làng Mỹ Phong ngày 14 Âout 1938 đặng trao cho Ông TRƯƠNG NGỌC DIÊU trình cho Lưỡng Triều làm ấn chứng.
Chưởng Quản Cửu Trùng Đài
Ký tên : NGUYỄN VĂN CA
Thánh danh: Bửu An Thiên
Vu pour légalisation de la signature apposée
ci-contre de M.Nguyễn Văn CA
Mytho, le 16 Âout 1938
P.l’ Administrateur
1$50 signé: Illisible
Enregistré à Mytho, le 17 Âout 1938
1/o 18 case 124
Recu 1$50 Le Receveur
Signé : Illisible
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |