6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ chế phát triển sạch (CDM) và thị trƣờng Carbon
1.1.1. Khái quát về cơ chế phát triển sạch
Quá trình phát triển công nghiệp mạnh mẽ trên thế giới, với những hoạt động
như đốt nhiên liệu hoá thạch, khai thác mỏ, khai phá rừng, chuyển đổi sử dụng đất,
sản xuất lương thực, chăn nuôi, xử lý chất thải... đã làm tăng nồng độ các khí nhà
kính trong khí quyển, nhất là khí CO
2
, CH
4
và N
2
O. Điều đó dẫn đến gia tăng hiệu
ứng nhà kính, điều đó làm cho nhiệt độ trái đất tăng nhanh. Người ta gọi đó là hiện
tượng nóng lên toàn cầu, làm biến đổi khí hậu trái đất, tác động lớn đến môi trường
sinh thái, gây nhiều tác hại khôn lường cho con người.
Trước những hiểm hoạ và thách thức lớn đối với toàn nhân loại, Liên Hiệp
Quốc (LHQ) đã tập hợp nhiều nhà khoa học, chuyên gia trên thế giới bàn bạc và đi
đến nhất trí, cần có một Công ước quốc tế về Khí hậu và coi đó là cơ sở pháp lý để
tập trung cộng đồng thế giới đối phó với những diễn biến tích cực của biến đổi khí
hậu. Và Công ước khung của LHQ về Biến đổi Khí hậu đã được chấp nhận vào
ngày 9/5/1992 tại trụ sở của LHQ ở New York (UNFCCC
- United Nations
Framwork Convention Climate Change), Đã có 186 nước tham gia ký Công ước
này tại Hội nghị Môi trường và Phát triển ở
Rio de Janeiro, Braxin vào tháng
6/1992, trong đó có Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng của UNFCCC là ổn
định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can
thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu. Các nước trên thế giới
được UNFCCC phân chia thành 2 nhóm nước:
Nhóm 1: Thuộc Phụ lục 1, gồm các nước phát triển với lượng phát thải khí
nhà kính rất lớn.
Nhóm 2: Không thuộc Phụ lục 1, trong đó có Việt Nam, thuộc các nước đang
phát triển. Tại Kyoto (Nhật Bản) đã diễn ra Hội nghị về môi trường thế giới lần thứ
3 vào tháng 12/1997. Hội nghị này đã thông qua một Nghị định gọi là Nghị định thư
Kyoto. Kyoto đưa ra cam kết đối với các nước phát triển về giảm lượng phát thải
các khí nhà kính phải thấp hơn mức phát thải của năm 1990. Cụ thể là: trong thời kỳ
8
ở Việt Nam. Trong khi đó, Ban điều hành và tư vấn chịu trách nhiệm phê duyệt các
dự án có sử dụng cơ chế CDM.
Thủ tướng đã ban hành Nghị định 35/2005/CT-TTg (ngày 17 tháng 10 năm
2005) về việc thực hiện nghị định thư Kyoto. Bộ TNMT ban hành Thông tư số
10/2006/TT-BTNMT (ngày 12 tháng 12 năm 2006) để hướng dẫn việc hình thành
và phê duyệt các dự án CDM. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2007, có 2 dựa án đã đăng ký
(590 trên thế giới) và 8 dự án đang được xây dựng tại Việt Nam [21].
Việc thực hiện CDM ở Việt Nam thực ra đó là sự thu hút vốn đầu tư từ các
tổ chức phi chính phủ, các nước công nghiệp phát triển và định hướng, chính sách
phát triển lâm nghiệp của chính phủ trong việc bảo vệ, tái tạo rừng , phục hồi đất
lâm nghiệp, thực hiện xã hội hoá lâm nghiệp... Nhằm tạo ra một môi trường hấp dẫn
đối với các nước trong việc đầu tư buôn bán phát thải CO
2
. Chính
phủ đã giao cho
Bộ Tài nguyên Môi trường là cơ quan đầu mối quốc gia về các vấn đề liên quan đến
biến đổi khí hậu và CDM. Chúng ta đã tổ chức nhiều dự án liên quan đến CDM như
thực hiện kiểm kê khí nhà kính quốc gia, nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM,
tổ chức các khoá huấn luyện nâng cao năng lực thực hiện dự án CDM và nhận dạng
các công nghệ tiềm năng cho CDM. Một số dự án CDM đã được các bên liên quan
phê chuẩn và đi vào thực hiện...
Là một nước đang phát triển, chúng ta chưa phải chịu trách nhiệm cắt giảm
khí thải nhà kính theo Nghị định thư Kyoto. Đây là một điều kiện thuận lợi để
chúng ta nghiên cứu thị trường này trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới
vì qua thị trường này có thể chúng ta sẽ thu được những khoản tiền và tài trợ lớn từ
các nước phát triển khi họ muốn trao đổi thị phần phát thải khí nhà kính với ta. Mặt
khác, nghiên cứu thị trường này cũng giúp chúng ta có thêm hiểu biết về những quy
định chung về việc sử dụng công nghệ sạch và khí thải nhà kính trên thế giới để
tránh cho nước ta trở thành nơi tiếp nhận các công nghệ gây ô nhiễm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: