hay công nghệ, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, (c) phân biệt đối xử giữa các
đối tác, (d) buộc đối tác phải chấp nhận các điều kiện không liên quan đến mục
đích chính của hợp đồng.142
Hiện nay có khoảng hơn 80 nước trên thế giới đã ban hành luật cạnh tranh và
chống độc quyền, nhằm lành mạnh hoá nền kinh tế.143 Cũng cần lưu ý là ở các
nước này luật cạnh tranh hình thành mà không cần phải có sự tác động của bất
cứ công ước quốc tế nào. Con số này sẽ càng có ý nghĩa nếu chúng ta biết rằng
vào đầu những năm 90 chỉ có khoảng 40 nước có luật chống độc quyền. Toàn
cầu hoá nền kinh tế, cộng với sự gia tăng bảo hộ độc quyền của chủ sở hữu trí
tuệ khiến cho các nước cảm thấy cần thiết phải có luật cạnh tranh. Ở Litva, luật
cạnh tranh quy định các chủ thể vi phạm Luật cạnh tranh sẽ bị Ủy ban Cạnh
tranh buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, hoàn trả lại cho đối tác nếu các thỏa
thuận hay các biện pháp cải tổ doanh nghiệp bị vô hiệu, bồi thường thiệt hại cho
bên bị thiệt hại và có thể bị xử phạt hành chính từ 2.500 đến 25.000 USD.
Trong trường hợp vi phạm đặc biệt nghiêm trọng hay tái phạm, mức phạt có thể
cao hơn, song không quá 10% doanh thu trung bình hàng năm của chủ thể bị
phạt.144 Các nước khác cũng có những quy định tương tự như vậy. Luật Cạnh
tranh của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, là bước tiến lớn
trên con đường cân bằng giữa quyền lợi của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và
những người sử dụng các đối tượng được bảo hộ.
141 EC Treaty, Art. 82.
142 EC Regulations on Technology Transfers (1996).
143 Boscheck (2001) “Governance of Global Market Relations” World Competition 24, 1: 62.
144 Lê Nết (2000) “Luật Cạnh tranh Litva.” Thông tin Khoa học Pháp lý, tháng 2/2001.
227
Chương 11: Một hệ thống bảo hộ cân bằng
11.1 Bản chất của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu trí tuệ có những đặc điểm khiến việc bảo hộ
chúng không giống như việc bảo hộ quyền sở hữu thông thường. Thứ nhất là
ảnh hưởng dây chuyền của các tài sản trí tuệ – tài sản sau kế thừa tài sản trước,
và vì vậy các tài sản không thể tách ra bảo hộ một cách riêng biệt. Thứ hai là
trong quan hệ quyền sở hữu trí tuệ, các chủ thể vừa có các quyền nhân thân vừa
có các quyền tài sản đối với các thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh
doanh được pháp luật bảo hộ. Điều đó cũng lý giải tại sao các quy định về sở
hữu trí tuệ không được gộp chung trong phần 2 của BLDS về sở hữu.145 Trong
phần 2, khi nhắc đến quyền sở hữu, chúng ta chỉ nhắc đến khía cạnh quyền tài
sản mà không hề nhắc đến quyền nhân thân. Trong khi ở phần 6, khi nhắc đến
quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta đã nhiều lần đề cập đến các quyền nhân thân của
tác giả, thí dụ như quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên hay bút danh trong tác
phẩm, hay quyền của tác giả sáng chế được ghi tên mình trong văn bằng bảo hộ
độc quyền. Đó là những quyền không thể tách rời các tác giả.
Khi nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ, hầu như ở bất cứ khâu nào chúng ta
cũng phải dừng lại giải thích các khái niệm và các tiêu chuẩn bảo hộ tương đối
trừu tượng (thí dụ như trình độ sáng tạo, khả năng gây nhầm lẫn, không hiểu
nhiên, yếu tố đặc thù, v.v.). Tất cả các tiêu chuẩn này mang tính định tính hơn
là định lượng, và phải được xem xét trong từng lĩnh vực cụ thể, dựa trên việc
xem xét lợi ích của các bên tham gia quan hệ.
Như đã nói ở trên, sẽ không có luật sở hữu trí tuệ nếu không nhắc đến yếu tố
độc quyền. Có thể nói rằng quyền sở hữu trí tuệ là một dạng độc quyền. Điều
đó có nghĩa là không ai được sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ nếu chưa
được chủ thể quyền cho phép (từ một số trường hợp sử dụng hạn chế theo luật
định).
Tuy nhiên, phạm vi độc quyền của từng đối tượng sở hữu trí tuệ rất khác nhau.
Đối với quyền tác giả, phạm vi độc quyền chỉ gói gọn trong hình thức trình bày
tác phẩm. Chủ sở hữu quyền tác giả văn học được độc quyền cho hay không
cho người khác sao chép hay cải biên tác phẩm của mình. Tuy nhiên, chủ sở
hữu quyền tác giả không có quyền cấm người khác xuất bản một tác phẩm
tương tự, nếu tác phẩm đó được sáng tạo một cách độc lập (có tính nguyên gốc),
không hề sao chép từ tác phẩm đầu tiên, và sự trùng lặp chỉ là ngẫu nhiên. Đối
145 Xem Báo cáo Góp ý của Chính phủ trình Quốc hội xin ý kiến xây dựng BLDS (Điểm 5).
228
với quyền sở hữu công nghiệp, phạm vi độc quyền rộng lớn hơn. Nếu một chủ
sở hữu sáng chế đã được cấp văn bằng bảo hộ, hay thậm chí chưa được cấp
bằng nhưng đã nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ, thì bất kỳ người nào khác, dù
sáng tạo độc lập, không ăn cắp ý tưởng của người đã nộp đơn, cũng không được
bảo hộ độc quyền như người nộp đơn đầu tiên nữa. Chính vì vậy trong chế định
về quyền sở hữu công nghiệp có khái niệm về ngày ưu tiên và quyền ưu tiên,
một khái niệm mà chế định về quyền tác giả không có.
Sau cùng, một đặc điểm cần lưu ý là độc quyền của sở hữu trí tuệ được pháp
luật thực thi thông qua một hệ thống bảo hộ. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Bảo hộ có mục đích: như giải phóng sức sản xuất, khuyến khích lao động
sáng tạo, có khả năng đem lại lợi ích cho đất nước, có khả năng ứng dụng
trong các ngành kinh tế - xã hội.
- Bảo hộ có điều kiện: nghĩa là việc bảo hộ phải không đi ngược lại với lợi
ích Nhà nước, quyền và lợi ích của các chủ thể khác.
- Bảo hộ có chọn lọc: nghĩa là để được bảo hộ, các đối tượng phải được chọn
lọc kỹ thông qua việc kiểm tra các tiêu chuẩn bảo hộ. Khi tiêu chuẩn bảo hộ
không cao, chúng ta không đặt ra vấn đề phải có cơ quan tiến hành kiểm tra
tiêu chuẩn bảo hộ. Thí dụ đối với quyền tác giả. Khi tiêu chuẩn bảo hộ cao
hơn, thực tế yêu cầu phải có một cơ quan chuyên trách nhằm đánh giá các
tiêu chuẩn bảo hộ và cấp văn bằng bảo hộ.
- Bảo hộ có thời hạn: nghĩa là việc chủ sở hữu được độc quyền sử dụng chỉ
được tiến hành trong một thời gian nhất định. Khi hết thời hạn bảo hộ, đối
tượng sở hữu trí tuệ trở thành tài sản của nhân loại và ai cũng được phép sử
dụng tài sản đó mà không phải xin phép chủ sở hữu nữa.
Tóm lại, độc quyền trong sở hữu trí tuệ là độc quyền có giới hạn về thời gian,
không gian và nội dung. Nguyên nhân giới hạn việc bảo hộ là do pháp luật
muốn hạn chế những mặt tiêu cực của độc quyền. Bảo hộ tạo ra độc quyền. Về
mặt tích cực, độc quyền khuyến khích lao động sáng tạo. Chúng ta biết để có
một thành quả lao động sáng tạo, tác giả phải bỏ biết bao công sức. Song các
thành quả này dễ dàng bị đánh cắp hay bị sử dụng, thậm chí chính tác giả cũng
không thể biết về điều này. Chỉ có các chế định bảo hộ độc quyền mới có thể
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả. Tuy nhiên, về mặt tiêu cực, độc quyền
sẽ làm hạn chế cạnh tranh, mà chính cạnh tranh cũng là một động lực để phát
triển lao động sáng tạo. Vì thế khi nào độc quyền còn phát huy tác dụng làm
khuyến khích lao động sáng tạo, giải phóng sức sản xuất thì pháp luật bảo vệ
229
độc quyền. Khi vai trò tích cực của độc quyền đã chấm dứt thì cũng là lúc pháp
luật phải hạn chế bảo hộ độc quyền.146
11.2 Bảo hộ và cân bằng lợi ích giữa các chủ thể
Aristotle đã từng nói: "luật pháp được lập ra là để cân bằng các lợi ích đối
kháng nhau." Như vậy một cơ chế bảo hộ quyền tác giả phần mềm thích hợp là
phải cân bằng lợi ích của các chủ thể sau đây:
- nhà sản xuất các sản phẩm có các yếu tố của sở hữu trí tuệ;
- tác giả;
- đối thủ cạnh tranh của nhà sản xuất;
- các doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu cho các sản phẩm hay tiêu thụ
các sản phẩm đó;
- các cơ quan nhà nước, trường học, viện nghiên cứu;
- những người sử dụng khác; và
- lợi ích của Nhà nước và toàn thể xã hội.
Nếu chúng ta coi việc thiết kế cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc phân
tích đánh giá, so sánh được - mất, chúng ta sẽ có sơ đồ sau (hình 2). Trong
hình, điểm B là điểm tối ưu về cả lợi ích xã hội và mức độ bảo hộ hợp lý. Tuy
nhiên, việc xác định điểm B rất khó. Dựa vào việc phân tích các lợi ích và cân
bằng các lợi ích , chúng ta chỉ mong xác định được một khoảng trong đó chúng
ta cần thiết kế cơ chế bảo hộ hợp lý (thí dụ từ D đến E).
Lợi ích xã hội
B
C
D E mức độ bảo hộ
11.3 Các vấn đề cần nghiên cứu để tìm một cơ chế bảo hộ thích hợp
Theo hình vẽ trên, thì vấn đề là ở chỗ phải tìm được giải pháp tối ưu cho việc
bảo vệ lợi ích của tất cả các chủ thể có liên quan, đặc biệt là lợi ích xã hội. Cơ
chế bảo hộ tối ưu không nhất thiết là không có xâm phạm (ở Mỹ, nước có luật
146 Kessie, F-K. (1999) “Developing Countries and the World Trade Organization – What Has
Changed?” World Competition 22(2): 94.
230
bảo vệ quyền tác giả đối với phần mềm và cơ chế thực thi nghiêm khắc nhất, tỷ
lệ xâm phạm phần mềm vẫn là 30%). Tuy nhiên, cần phải hạ tỷ lệ xâm phạm
đến mức “không ảnh hưởng quá lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của các
chủ thể lao động sáng tạo”. Để tìm được cơ chế bảo hộ thích hợp nhất, cần phải
giải đáp các câu hỏi sau đây:
- giải pháp của chúng ta đưa ra có làm tăng trưởng nền kinh tế hay không?
và
- lợi ích mà đất nước thu được từ việc tăng trưởng nền kinh tế có lớn hơn
chi phí mà xã hội phải trả cho các chủ sở hữu trí tuệ hay không?
Cũng cần lưu ý là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không phải là cây đũa thần để thu
hút đầu tư, hay để khuyến khích năng động sáng tạo. Cả Nhà nước và nhân dân
cũng cần những tác động tích cực vào việc tạo ra những sản phẩm trí tuệ để tài
sản trí tuệ của Việt Nam không quá mất cân bằng so với tài sản của nước ngoài
mà Việt Nam đang bảo hộ. Thí dụ, để phát triển công nghệ phần mềm, thì
ngoài biện pháp bảo hộ, Nhà nước nên có chính sách buộc các cơ quan nhà
nước sử dụng máy tính có hệ điều hành giá rẻ hơn hệ MS. DOS của Microsoft,
điển hình là hệ Linux. Đó cũng là phương thức mà Trung Quốc, Pháp, Đức và
nhiều nước khác đang áp dụng. Ngoài ra, Nhà nước nên khuyến khích các công
ty phần mềm sản xuất các phần mềm ứng dụng chạy trên hệ điều hành Linux, và
tiến hành huấn luyện nhân viên lập trình trên Linux.147 Bên cạnh việc khuyến
khích cơ quan nhà nước mua phần mềm nội địa, Nhà nước cần hướng dẫn các
cơ quan và người sử dụng mua phần mềm trong nước tại các doanh nghiệp có
khả năng phát triển. Ngoài ra còn cần có sự đầu tư của Nhà nước vào các công
ty có năng lực, tập trung các doanh nghiệp nhỏ thành các công ty mạnh, chuyên
môn hoá, ưu tiên sử dụng các sản phẩm phần mềm nội địa trong các dự án ứng
dụng.
Tất nhiên một khi thực thi quyền sở hữu trí tuệ chặt chẽ, người tiêu dùng sẽ
không còn mua được băng đĩa, quần áo, xe máy, đồ điện tử – hàng xâm phạm
quyền thực sở hữu trí tuệ – với giá rẻ như bây giờ. Tuy nhiên, đây là một sự
đánh đổi cho lợi ích thu được từ việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ : đó
là việc nâng cao mức hấp dẫn đầu tư đuổi kịp các nước trong khu vực (nhất là
Trung Quốc), là những lợi ích mà hội nhập quốc tế mang lại và tạo được sự yên
tâm cho các nhà sản xuất trong nước khi đầu tư vào các đối tượng sở hữu trí tuệ.
147 Hiện có rất nhiều các lập trình viên trên thế giới sẵn sàng trao đổi kiến thức lập trình
trên hệ Linux, không thu tiền. Thậm chí có một trang web mang tên "Copyleft" để
phản đối việc lạm dụng "Copyright" (bản quyền) của các công ty đa quốc gia. Bạn đọc
có thể liên hệ trang web: www.gnu.org.
231
11.4 Kết luận
Qua các chương trước, chúng ta đã phân tích những mặt lợi và hại của việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, với ba kết luận nổi bật sau đây:
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết và cần phải có hiệu quả, để thúc
đẩy tính năng động và sáng tạo của nền kinh tế thị trường, và chủ động
hội nhập vào nền kinh tế thế giới;
- Tài sản trí tuệ hiện nay tập trung phần lớn vào tay các công ty đa quốc
gia, và chỉ có một số quốc gia có lợi thế về buôn bán trao đổi tài sản trí
tuệ. Tuy nhiên, xu thế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở tất cả các quốc gia
là xu thế tất yếu trong một nền kinh tế toàn cầu hoá. Xét về ý nghĩa đó,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn là sự đánh đổi cho việc hội nhập kinh tế.
Sự đánh đổi này có lợi hay hại là hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng
tham gia hội nhập của các thành phần kinh tế của chúng ta; và
- Quyền sở hữu trí tuệ, cũng như bất cứ quyền dân sự nào, cũng có khả
năng bị lạm dụng, vì thế pháp luật cần phải nhận thấy rõ: khi nào thì
quyền này bị lạm dụng, và phải có biện pháp để chống lạm dụng.
Trong khi tìm biện pháp chống lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ, cần lưu ý rằng
trong Thoả ước TRIPS có cho phép áp dụng các điều khoản chống lạm dụng,
thông qua một số “ngoại lệ” (như sử dụng hạn chế). Các ngoại lệ này chưa hẳn
là đủ rộng để việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không gây nên nạn lạm dụng độc
quyền hay ảnh hưởng đến những đối tượng Nhà nước cần hỗ trợ như các khu
vực y tế, giáo dục. Tuy nhiên, tìm hiểu kỹ điều ước quốc tế và giải thích tốt
những trường hợp “ngoại lệ” để khỏi “tự bắn vào chân mình”, bên cạnh đó thực
hiện đúng những gì đã cam kết là cách tốt nhất để tận dụng những thuận lợi,
khắc phục những khó khăn và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế.
Cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiện nay chưa thực sự hiệu quả theo hướng:
đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém. Tuy nhiên, thực thi không phải là quá khó
một khi đã có một hệ thống bảo hộ cân bằng. Nếu các cam kết về thực thi
quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được thực hiện, các
khiếm khuyết trên sẽ được sửa đổi. Các nhà sản xuất trong nước cũng như các
công ty nước ngoài có thể lạc quan hơn về việc thành quả đầu tư của mình sẽ
được bảo vệ. Tuy nhiên, vấn đề không phải ở chỗ chúng ta không có biện pháp,
mà ở chỗ phải bảo đảm cân bằng lợi ích. Chỉ khi chúng ta có một hệ thống bảo
hộ cân bằng: giữa lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và của người sử dụng, giữa bảo
hộ và cạnh tranh, giữa sử dụng quyền và lạm dụng quyền, chúng ta mới thông
suốt về mục tiêu thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
232
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asanavich, B. (1998): “Chuyển giao công nghệ và Li-xăng ở Thái Lan”. Tài
liệu hội thảo.
Banerji, S. (2000): “The Indian Intellectual Property Rights Regime and the
TRIPs Agreement.” In Long, C. (2000), Intellectual Property Rights in
Emerging Markets. The American Enterprise Institute Press.
Bettig, R. (1999) Copyrighting Culture - The Political Economy of Intellectual
Property. Wesview Press.
Blakeney, M. (1996) Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights - A
Concise Guide to TRIPS Agreement, Sweet & Maxwell.
Bogsch, A. (1952) A Brief History of the First 50 Years of the World
Intellectual Property Organisation. Geneva.
Boscheck, R. (2001) “The Governance of Global Market Relations.” World
Competition 24, No. 1: 62.
Brusick, P. (2001) “The UNCTAD Role in Promoting Co-operation on
Competition Law and Policy.” World Competition 24, No. 1: 26.
Butler, B. E. (2001) Internet Ecyclopedia of Philosophy. University of North
Carolina at Asheville (re: Legal Pragmatism, G.W.F. Hegel, J. Locke, Right to
Private Property). Available at http://www.utm.edu/research/iep/.
Chen, J. (2000) Hearing on the US-China BTA and the Assession of China to
WTO. Business Software Association Publication.
Chisum, D. and Jacobs. M. (1999) Understanding Intellectual Property Law,
Mathew Bender.
Coase, R. (1988) The Firm, The Market, and the Law. The University of
Chicago Press, IL.
Cooter, T. and Ulen, R. (2000) Law and Economics. Wiley & Sons, Chương III.
Cornish, W. (1996) (3rd ed.) Intellectual Property - Patents, Copyrights,
Trademarks and Allied Rights. Sweet & Maxwell, London.
233
Correa, C. (1994): "TRIPS Agreement: Copyright and Related Rights", 25 IIC
Studies No. 4/1994: 546.
Correra, C. and Yusuf, A. (1998) Intellectual Property and International Trade –
The TRIPS Agreement. Sweet & Maxwell.
Cục SHTT (2000) Tài liệu hội thảo NOIP-TAP VIET dành cho thẩm phán và
cán bộ toà án.
Davies, G. (1994) Copyright and Public Interest. IIC Studies, Max-Planck
Institute 14: 9.
Counsell, D. (1996): “The Regulation of Technology Transfer in Vietnam - The
Investor’s Perspective”. Tài liệu hội thảo.
Demsetz, H. (1971) “Information and Efficiency – Another Viewpoint”, in
Lamberton, D. (ed., 1971) Economics of Information and Knowledge. Penguin.
Duquete, D. (1999) Georg Wilhelm Friedrich Hegel – Social and Political
Thought. Internet Encyclopedia of Philosophy.
European Patent Office (1992) How to Get a European Patent - Guide for
Applicant.
European Patent Office (1997) What is Patentable?
Firth, A. (1999) "Copyright in the Digital World: a Reversion to Old Forms?" In
Kinahan, A. (ed.) Now and Then - A Celebration of Sweet & Maxwell
Bicentenary 1799-1999. Sweet & Maxwell. London: 69.
Fitkentscher, W. (1996) "Historical Origin and Opportunities for Development
of an International Competition Law in the TRIPS Agreement of WTO and
Beyond." In Beier, F-K, and Schricker, G. (Eds.) (1996) From GATT to TRIPs -
The Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights. IIC
Studies Vol. 18. VCH Munchen
Gervais, D. (1998) The TRIPS Agreement, Drafting History and Analysis. Sweet
& Maxwell.
Ginsburg, J. (1992) "No 'Sweat'? Copyright and Other Protection of Works of
Information After Feist v. Rural Telephone." 92 Columbia Law Review: 344.
234
Goldstein, P. (1996) “The Future of Copyright in a Digital Environment.” In
Hugenholtz, P. (ed.) The Future of Copyright in a Digital Environment.
Information Law Series, Kluwer.
Grosheide, W. (2001) “Copyright From User’s Perspective.” EIPR 23: 321.
Heileman, M. (2000) “The Truth, The Whole Truth, and Nothing But The Truth
- The untold story of the Microsoft antitrust case and what it means for the
future of Bill Gates and his company.” Wired 8.11. Harvard Univ. Press.
Hoàng Văn Tân (1998): “Li-xăng Sở hữu Công nghiệp ở Việt Nam”, báo cáo tại
Hội thảo về Sở hữu công nghiệp tháng 11/1997 ở TP HCM.
Học viện Chính trị Quốc gia (1999) Triết học Mác – Lê nin, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Học viện Quan hệ Quốc tế (1999) Luật Kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
Jae-Hoon Kim (1993): “Experience and practice of Regulating Industrial
property licensing and Promotion of Trade and Investment in the Republic of
Korea”. Tài liệu hội thảo.
Japan Patent Office (2001) Sách Giáo khoa Chuẩn về Quyền Sở hữu Công
nghiệp – Yêu cầu cấp Bằng độc quyền (Patent) tại Nhật Bản. JPO, Tokyo.
Japan Patent Office (2001) Industrial Property Rights Standard Textbook –
Trademark. JPO, Tokyo.
Joos, U. and Moufang, R. (1989): "Report on the Second Ringberg-
Symposium." IIC Studies Vol. 11 - GATT or WIPO? New Ways in the
International Protection of Intellectual Property (F-K. Beier and G. Schricker
(ed.), Munich.
Kessie, F-K. (1999) “Developing Countries and the World Trade Organization –
What Has Changed?” World Competition 22(2): 94.
Kingston, W. (1990) Innovation, Creativity and Law. Kluwer.
Ladas, S. (1994) International Law on the Protection of Patents, Trademarks
and Industrial Designs. Harvard Univ. Press.
235
Laddie, J. (1996) “Copyright: Over-Strength, Over-Regulated, Over-Rated.”
EIPR 18: 253-260.
Lai, S. (2000) The Copyright Protection of Computer Software in the United
Kingdom. Hart Publishing.
Lê Hương Lan (2001) “Một số vấn đề về quyền tác giả trong BLDS – thực trạng
thi hành và khuyến nghị hoàn thiện.” Chuyên đề Tạp chí Thông tin Khoa học
Pháp lý tháng 11/12 năm 2001.
Lê Nết (1996) Striking the Balance on Compulsory Licensing. KU Leuven
Research Paper.
Lê Nết (2000) “Luật Cạnh tranh Litva.” Thông tin Khoa học Pháp lý, tháng
2/2001.
Lê Nết (2001) Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính tại Việt Nam.
Đề tài NCKH 2001.
Lê Nết (2001) “Chuyển giao công nghệ quá ít, vì sao?” Tuổi trẻ ngày
15/12/2001.
Lê Nết (2002) “Bảo vệ nhãn hiệu ở Hoa Kỳ.” Tuổi Trẻ ngày 9/06/2002.
Lê Nết (2004) “Sunk Costs and Free Riding in Copyright Compulsory
Licensing” 2 Rev. on Economic Research on Copyright Issues No. 2.
Lê Nết (2004) “Microsoft Europe and Switching Costs” World Competition No.
4/2004.
Lê Nết (2004) “Rethinking the Three Step Test – Article 13 TRIPS” IP
Community No. 2/2004, JIII, Tokyo, Japan.
Lê Nết (2005) “What Does Capable to Eliminate Competition Mean?”
European Competition Law Review No. 1/2005.
Lê Quang Báu (1996): “Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam”. Tài liệu
hội thảo.
Murphy, W. và Roberts, S. (1998) Understanding Property Law. Sweet &
Maxwell.
236
Phan Minh Nhựt (1999) Bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Đề tài NCKH Đại học Luật TP HCM.
Phí Văn Lịch (1996): “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề chuyển giao
công nghệ ở Việt Nam”, trang 3.
Ricketson, S. (1986) The Berne Convention 1886 for Protection of Literary and
Artistic Works. Sweet & Maxwell.
Scherer, F. (1986) Innovation and Growth – Schumpeterian Perspectives. MIT
Press.
Schofield, P. S. and Harris, J. (1998) The Collected Works of Jeremy Bentham –
Legislator of the World: Writing on Codification, Law and Education.
Clarendon, Oxford.
Schultz, G. (1994) Intellectual Property Rights Protection for Computer
Software. CCH.
Schumpeter, J. (1942) Capitalism, Socialism and Democracy. Harvard Univ.
Press.
Schumpeter, J. (1997) Ten Great Economists: From Marx to Keynes.
Routledge.
Scotchmer, S. (2001) "The Political Economy of Intellectual Property Treaties."
Business Research Working Paper E01-305. U.C. Berkeley (08/01).
Shiro Mochizuki (1998): “Chuyển giao và Li-xăng công nghệ”. Tài liệu hội
thảo.
Smith, A. (1776) The Wealth of Nations. (reprinted by New York: Modern
Library 1937).
Soros, G. (1999) Open Society – Reform Capitalism. London.
Stiglitz, J. & Driffill, J. (2000) Economics. Norton Corp.
Stiglitz, J. (1997) Wither Socialism? MIT Press, Cambridge. MA.
Strongquist, N. and Monkman, K. (2000) Globalization and Education –
Interpretation and Contestation. Acron Culhness.
237
The Sveriges Riksbank (Bank of Sweden) Prize in Economic Sciences in
Memory of Alfred Nobel (Nobel Economics 1991): Property and Transaction
CosTS (R. Coase).
Wolter, A., Ignatowicz, J. và Stefaniuk, K. (1996) Prawo Cywilne, Zarys Czesci
Ogolnej. PWN.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |