69
Bảng 4.5: So sánh tỷ lệ biến chứng suy thận ở các sản phụ bị tử vong
so với các nghiên cứu khác
Tác giả
Tỷ lệ suy thận ở các sản phụ
tử vong (%)
Núinovici.V (1997) [81]
75%
Vũ Khánh Lân (1978) [21]
94%
Vũ Thị Thanh Huyền (2000) [13]
93%
Nguyễn Dư Dậu (2006)
81,8%
Nguyễn Văn Hiền (2011)
4,6% suy thận cấp,không có tử vong
Như vậy việc phòng ngừa biến chứng suy thận ở sản phụ VGVR B
chuyển dạ đẻ, mà chúng tôi nghiên cứu thu được kết quả rõ ràng tốt hơn so
với kết quả của các nghiên cứu trước đó.
Nusinovici.V cho rằng: tổn thương thận ở các bệnh nhân viêm gan chủ
yếu là hoại tử ống thận cấp, một số ít hơn là suy thận cơ năng. Suy thận là
một trong những yếu tố làm cho tình trạng bệnh nhân VGVR xấu hơn [83].
Trong nghiên cứu của Phan Thị Anh, 1/3 các bệnh nhân VGVR nặng có urê
huyết thanh giảm [2].
J.Beruau [79] cho rằng suy thận do VGVR cấp có biến chứng hôn mê
gặp nhiều ở phụ nữ có thai, do khi có thai, cơ thể mẹ bị suy yếu, sự lan tràn
nội độc tố của virus trong máu cũng như biến chứng đông máu rải rác
trong
lòng mạch xảy ra nhanh hơn so với các bệnh nhân không có thai dẫn đến tăng
tỷ lệ suy thận.
Theo P.D Tank và cộng sự: đông máu rải rác trong lòng mạch đã làm
gia tăng tỷ lệ suy thận, chính việc lan tràn nội độc tố trong máu, sự lắng đọng
lưới fibrin ở các mao mạch thận trong đông máu rải rác trong long mạch và sự
70
mất máu trước và sau đẻ làm cho sản phụ bị suy đa phủ tạng trong đó có suy
thận cấp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: