Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin


- Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện



tải về 1.73 Mb.
trang16/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   20

- Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện với đạo đức và lối sống văn hóa lành mạnh làm cho nguồn lực con người và nền văn hóa mới, thực sự là động lực phát triển và mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội

Nhiệm vụ này được đặt ra như là sự phản ánh kết quả tổng hợp của toàn bộ quá trình giáo dục văn hóa, xây dựng và phát triển văn hóa trong Chủ nghĩa xã hội.

Đây chính là tính hướng đích của cách mạng tư tưởng và văn hóa phù hợp với bản chất và mục tiêu của Chủ nghĩ a xã hội.

Con người Xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của xã hội mới được biểu hiện phổ biến trong quần chúng lao động: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên. Đó là thế hệ những người được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng, là những người lao động đã trưởng thành, là các thế hệ trẻ kế tiếp. C.Mác từng nói: tương lai của Chủ nghĩa cộng sản như thế nào, điều đó tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ đang lớn lên của giai cấp công nhân.

Những con người Xã hội chủ nghĩa đó thể hiện một mẫu nhân cách mới: sống có lý tưởng, sống có trách nhiệm với công việc, với xã hội, với mọi người và với chính mình. Họ phải là những con người có học thức, có niềm tin khoa học, có năng lực hoạt động sáng tạo, làm việc với tính tổ chức, tính kỷ luật cao, đấu tranh cho lẽ phải, chân lý, cho sự công bằng, bình đẳng và dân chủ. Đó là những con người có sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, sự phong phú về đời sống tinh thần.

Những con người và lối sống mới Xã hội chủ nghĩa đó là sự thể hiện trình độ phát triển văn hóa cao của cá nhân và cộng đồng.

Đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh của xã hội vừa được biểu hiện ở đời sống văn hóa cá nhân, đời sống văn hóa gia đình lại vừa thúc đẩy mỗi cá nhân trở thành một nhân cách văn hóa, vừa tạo dựng các gia đình – những tế bào của xã hội thành các gia đình văn hóa. Như thế, đời sống văn hóa tinh thần của Chủ nghĩa xã hội vừa như một môi trường xã hội với chất lượng cao về đạo đức, văn hóa và lối sống, lại vừa đồng thời là sự tổng hợp phong phú các hoạt động văn hóa của xã hội hướng vào sự phát triển cá nhân và cộng đồng nhằm tạo ra văn hóa nhân cách của cá nhân, văn hóa gia đình và văn hóa của xã hội. Chất lượng sáng tạo, cảm thụ văn hóa, giao tiếp văn hóa được tạo ra từ đó, như điều mà V.I.Lênin đã nói: phải làm cho những người lao động có thể thực sự hưởng được tất cả những phúc lợi của nền văn hóa, văn minh và dân chủ.

- Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa

Lối sống là biểu hiện sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau, là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần của con người; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh te - xã hội và có tác động đến hình thái kinh tế xã hội đó. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.



- Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa

+ Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.

+ Gia đình là một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù

Nếu như văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì gia đình chính là một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù. Tính chất, bản sắc của gia đình được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mỗi thành viên gia đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hóa cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp và tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc.



+ Khái niệm gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa

Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình hình thành trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.

Luật hôn nhân – gia đình ngày càng hoàn thiện là cơ sở pháp lý để thực hiện chế độ hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, một vợ, một chồng, xây dựng gia đình bình đẳng, dân chủ, hòa thuận, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc, bền vững.

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo đem lại nhiều cơ hội, điều kiện phát huy đầy đủ khả năng của mỗi công dân, mỗi gia đình, nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn của mỗi thành viên, góp phần xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình hòa thuận hạnh phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của xã hội. Ngược lại, xã hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia đình ấm no, hạnh phúc. Hơn nữa, xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội về cơ bản là phù hợp.

Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ nhũng yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tư bản chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.

Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước phát triển của các hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại. Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Con người mới của xã hội mới khi tạo dựng cho hạnh phúc gia đình cũng là góp phần cho sự phát triển của xã hội. Với ý nghĩa đó, việc xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa trở thành một nội dung quan trọng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; là sự thể hiện tính ưu việt của nền văn hóa ấy so với các nền văn hóa trước đó.

Có nhiều nội dung quan trọng cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, nhưng việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là nội dung quan trọng nhất. Mối quan hệ trong gia đình là một bộ phận của quan hệ xã hội đồng thời là biểu hiện của quan hệ xã hội. Phải tạo dựng mối quan hệ vợ chồng bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau về mọi mặt. Bình đẳng, thương yêu, tôn trọng nhau là những yếu tố gắn bó mật thiết với nhau trong quan hệ vợ chồng. Mối quan hệ giửa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình là mối quan hệ huyết thống, tình cảm của tình thương yêu và trách nhiệm.

Chủ nghĩa xã hội luôn luôn tạo điều kiện vật chất và tinh thần tốt nhất trong điều kiện có thể để mọi gia đình ấm no hạnh phúc và cũng đòi hỏi gia đình cung cấp cho xã hội những người công dân có sức khỏe tốt, có trí tuệ phát triển. Tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là yếu tố cơ bản để xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi con người, góp phần trực tiếp xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới.

b. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

- Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội.

- Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối chính sách văn hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản.

- Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại. V.I.Lênin viết: Văn hóa vô sản là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được,” đó là con đường đang và sẽ tiếp tục đưa văn hóa vô sản, cũng như chính trị-kinh tế học do Mác hoàn chỉnh lại”.

- Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

1. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

a. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc

- Khái niệm dân tộc

Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.

Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến.

Ở một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập.

Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:

+Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.

+Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.

Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Dưới giác độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất.

Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối liên hệ với nghĩa thứ hai thì sắc thái nội dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.

- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc

+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.

+ Cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em.

+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

+ Có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).

Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định.

Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xây dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.

b. Hai xu hướng phát triển của các dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc.



- Xu hướng thứ nhất: Do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Trong thực tế xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

- Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác dụng nổi bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu.

Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.

* Xét trên phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nổ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại trừ các tư tưởng và hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc.

* Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng sẽ bị xóa bỏ. Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, tạo tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành và phát triển của dân tộc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi sự cải tạo, xây dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ kết quả toàn diện trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, tư tưởng.

Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc trong thời đại ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” là nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.( Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 8 của Đảng,1996,tr.84 )



c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.

Vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.

- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.

Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nhà nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.

Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.

- Các dân tộc được quyền tự quyết

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.

Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.

- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc

Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

2. Vấn đề tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

a. Khái niệm tôn giáo

Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phán ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. C. Mác và Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một lực lượng xã hội, trần thế”.(C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập-1994, tập 20, tr.437)

Tôn giáo có nguồn gốc từ sự bất lực và sự sợ hãi của con ngưòi trước sức mạnh của giới tự nhiên. Ngoài ra trong xã hội có giai cấp, tôn giáo còn bắt nguồn từ sự áp bức bóc lột giai cấp.

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.

Theo C. Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” ( Sđd, tập 1,tr.570)

Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý của con người. Trong hệ thống những lời răn dạy của giáo lý tôn giáo cũng có những điều góp phần hướng con người đến những việc thiện, tránh điều ác.



b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa

- Nguyên nhân nhận thức: Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, giúp con người có thêm khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan còn nhiều vấn đề khoa học chưa thể làm rõ. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ và tin tưởng vào thần, thánh, phật… chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội.

- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ, trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Mặc dù, xã hội đã có những biến đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội… nhưng tín ngưỡng, tôn giáo không thay đổi kịp tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.

- Nguyên nhân chính trị – xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo, có những điểm còn phù hợp với Chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu tinh thần của bộ phận nhân dân. Vì vậy tôn giáo vẫn tồn tại trong Chủ nghĩa xã hội.

Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để thực hiện cho mưu đồ chính trị của mình. Cùng với nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.

- Nguyên nhân kinh tế: Trong Chủ nghĩa xã hội nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, con người còn chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó làm cho con người có tâm lý thụ động, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.



- Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hóa (có chọn lọc) của nhân loại trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết.

c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:



- Một là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội Xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào làm hạn chế khả năng vươn lên làm chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

- Hai là: Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức, chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân.

- Ba là: Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với Chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo.

- Bốn là: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới. Giải quyết vấn đề này phải khẩn trương, kiên quyết, vừa thận trọng vừa có sách lược đúng đắn.



- Năm là: Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.

Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng khác nhau. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử- cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến tôn giáo.




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương