Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin


Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản



tải về 1.73 Mb.
trang13/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20

2. Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản

Ngoài những đóng góp tích cực, CNTB cũng có những hạn chế và mâu thuẫn chưa giải quyết được.



Thứ nhât, hạn chế về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản. Khi nghiên cứu lịch sử ra đời của CNTB trong giai đoạn đầu, gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy. Các Mác đã vạch rõ thực chất tích lũy nguyên thủy của CNTB là xâm chiếm, cướp bóc thuộc địa, tước đoạt những người sản xuất nhỏ mà trực tiếp là nông dân, buôn bán, trao đổi không ngang giá, quá trình này đã được lịch sử ghi lại với những trang đẫm máu và lửa.

Thứ hai, sự bóc lột lao động. Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của CNTB là quá trình bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê. Mặc dù sự bóc lột của tư bản đối với lao động, đã có những bước tiến nhất định so với các xã hội trước đó, đồng thời tạo ra động lực cho sự phát triển, tuy nhiên sự bóc lột này cũng dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động, phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.

Thứ ba, mâu thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản đã dẫn đến những cuộc chiến tranh thế giới và xung đột ở các khu vực. Điển hình là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), với mục đích là tranh giành thị trường thuộc địa và khu vực ảnh hưởng, từ đó đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề như hàng triệu người vô tội bị giết hại, cơ sở hạ tầng bị phá hủy, nền kinh tế bị khủng hoảng, thất nghiệp, môi trường bị tàn phá. Ngày nay, CNTB cũng chính là tác nhân gây ra cuộc chạy đua vũ trang, xung đột quân sự ở các nước, các khu vực, cụ thể như việc NATO xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu, sát biên giới với Nga, Mỹ đưa quân vào Afganistan, Irắc, hậu thuẫn cho Israel gây bất ổn ở Trung Đông, sự can thiệp của Mỹ ra bên ngoài, cùng với chi phí quân sự tăng cao là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế mang tính toàn cầu, đang lan rộng năm 2008-2009.

Thứ tư, CNTB đã tạo ra sự phân hóa giàu, nghèo ngày càng lớn. Theo tính toán của các chuyên gia, thì mức độ chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa những nước giàu nhất với những nước nghèo nhất khoảng 250 lần. Các nước nghèo, do tác động của khủng hoảng kinh tế và chiến tranh mức sống, thu nhập và điều kiện sống bị giảm đi nhanh chóng như: Xomali, Afganistan, Irac, Palestin. Trong khi đó các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản lớn, đã thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ việc bán vũ khí, bán công nghệ, xuất khẩu tư bản, cho vay…Các nước nghèo không chỉ bị giảm sút về thu nhập mà còn kéo theo gắng nặng nợ nần, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường bị tàn phá.

Thứ năm, những mâu thuẫn và hạn chế ngay trong lòng các nước tư bản, như mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản lớn với các nhà sản xuất nhỏ, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động, mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản với các tầng lớp nhân dân, tội phạm và các tệ nạn xã hội tăng, mất cân bằng về môi trường sinh thái, khủng hoảng kinh tế.

3. Giới hạn lịch sử của CNTB

Những mâu thuẫn và hạn chế của CNTB, bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB là: mâu thuẫn giữa sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, mang tính xã hội hóa, với quan hệ sản xuất tư nhân TBCN dẫn đến kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù ngày nay, CNTB đã có sự điều chỉnh nhất định như: tăng cường quy mô sở hữu về tư liệu sản xuất, mở rộng hệ thống phân phối và nâng cao trình độ quản lý, qua đó đã giảm bớt được các mâu thuẫn. Nhưng sự điều chỉnh đó, vẫn không vượt qua được giới hạn của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích của các nhà tư bản. Trên cơ sở đó Các Mác và V.I.Lênin đã nhận định: khi CNTB phát triển đến giai đoạn nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân TBCN, sẽ bị phá vỡ, thay vào đó là quan hệ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thay vào đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, nhưng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.



Chương VII

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó

a. Khái niệm giai cấp công nhân

Mác-Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp công nhân giữa thế kỷ XIX như: giai cấp vô sản, giai cấp hoàn toàn chỉ dựa vào bán sức lao động của mình, giai cấp lao động làm thuê ở thế kỷ XIX; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công nhân đại công nghiệp … Những thuật ngữ này đều đồng nghĩa để biểu thị khái niệm giai cấp công nhân. Dù tên gọi có khác nhau nhưng nhìn chung, theo cách diễn đạt của Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân có hai đặc trưng cơ bản sau:



Thứ nhất, xét về phương thức lao động, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đây là đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường thủ công.

Thứ hai, xét về địa vị trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. ( Đây là đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, vì vậy C.Mác và Ph.Ăngghen thường sử dụng khái niệm giai cấp vô sản).

Ngày nay với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của khoa học – công nghệ, giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ của C.Mác, cụ thể như sau:

- Bên cạnh bộ phận công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện bộ phận công nhân trong nền công nghiệp tự động hóa, do áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất.

- Xuất hiện bộ phận công nhân dịch vụ gắn với nền sản xuất công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp.

- Giai cấp công nhân có trình độ mọi mặt ngày càng cao, ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức tham gia vào đội ngũ công nhân, nên bộ phận công nhân bán sức lao động bằng trí óc ngày càng tăng, do đó, giá trị thặng dư do giai cấp công nhân làm ra cho nhà tư bản ngày càng nhiều.

- Một số công nhân có tư liệu sản xuất phụ tại gia đình, có cổ phần ở nhà máy, xí nghiệp, đời sống của công nhân được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, trong thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất của họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động cho nhà tư bản.

Xuất phát từ quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu sự biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, chúng ta có thể định nghĩa:

Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao. Là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội. Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ”.

- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi xem xét giai cấp công nhân, chủ yếu dựa vào đặc trưng thứ nhất, còn đặc trưng thứ hai, nếu xét toàn bộ giai cấp thì giai cấp công nhân là người chủ xã hội, giữ vai trò lãnh đạo. Song xét về mặt cá nhân vẫn còn một bộ phận công nhân đi làm thuê, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.

Như vậy, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương trong các ngành khác không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp, không hoạt động theo kiểu công nghiệp như: y tế, văn hóa, giáo dục… là người lao động nói chung, không phải là công nhân.



b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại thoát khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu… Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai bước:

- Thứ nhất,” giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết trở thành sở hữu nhà nước”.

- Thứ hai, “ giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp và xóa bỏ nhà nước với tư cách là nhà nước”.

(C.Mác-Ph.Ăngghen:Toàn tập-2002, tập 20, tr.389)

Bước thứ nhất rất khó khăn, nhưng bước thứ hai lại càng khó hơn. Đó là xây dựng một xã hội mới không có áp bức bóc lột, tiến lên một xã hội không còn giai cấp và thực hiện nguyên tắc “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu

2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a. Địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản

Về số lượng: Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân chiếm ưu thế về số lượng. Đúng như Mác đã dự báo: Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng mở rộng, ngày càng phát triển thì” Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp

Về chất lượng: do điều kiện lao động gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp hiện đại, và để tồn tại đã buộc giai cấp công nhân phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại. do vậy đội ngũ công nhân được tri thức hóa cũng ngày càng tăng.

Về quyền lợi: Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với quần chúng lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.



b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

Khi nghiên cứu về địa vị Kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân C.Mác-Ph.Ăngghen nhận thấy:



- Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.

Do không có tư liệu sản xuất, bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề; lại được trang bị học thuyết cách mạng khoa học là chủ nghĩa Mác-Lênin và được Đảng tiên phong lãnh đạo đã tôi luyện cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tinh thần triệt để cách mạng. Mác và Ph.Ăngghen viết:” Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng…” ( Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản)

- Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

Do điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật-công có cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ đã rèn luyện cho giai cấp công nhân tính tổ chức và kỷ luật. Cuộc đấu tranh kinh tế, chính trị chống giai cấp tư sản đã tôi luyện họ trở thành giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.



- Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.

Do giai cấp công nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế- xã hội giống nhau, gắn với nền công nghiệp hiện đại có trình độ xã hội hóa ngày càng cao chẳng những ở mỗi nước mà còn ở trên phạm vi quốc tế. Giai cấp công nhân đều có kẻ thù chung, có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Đây là những cơ sở khách quan để tạo nên bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.



3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển chính Đảng của giai cấp công nhân

Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. hai ông đã xây dựng nên thuyết về một xã hội mới. Học thuyết này đã phản ánh đúng những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của giai cấp công nhân. Đặc biệt, chỉ ra một cách đúng đắn con đường, điều kiện, biện pháp… để thực hiện nguyện vọng đó. Vì vậy, nó đã được giai cấp công nhân tiếp thu nhanh chóng và coi đó là “vũ khí lý luận” của giai cấp mình.

Chủ nghĩa Mác có nhu cầu xâm nhập vào phong trào công nhân để hướng dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và qua đó kiểm nghiệm, bổ sung hoàn chỉnh học thuyết của mình. Còn giai cấp công nhân, từ thất bại trong các cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, họ đang rất cần có lý luận cách mạng, khoa học để dẫn đường. Khi lý luận của chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân, một bộ phận tiên tiến trong giai cấp công nhân đã tiếp thu được học thuyết cách mạng của Mác. Họ dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác để xác định cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược… Họ đứng ra tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở nước mình. Chính bộ phận ưu tú đó hình thành nên chính Đảng của giai cấp công nhân – đó là Đảng Cộng sản.

V.I.Lênin đã khái quát quá trình hình thành chính đảng của giai cấp công nhân và nêu thành quy luật: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.

Tuy nhiên trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở những nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra Đảng Cộng sản.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng.



b. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp công nhân

Đảng chính trị là tổ chức cao nhất của một giai cấp, nó đại biểu tập trung cho nguyện vọng, trí tuệ, lợi ích của giai cấp đó. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân được thể hiện như sau:

- Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu có trình độ lý luận cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và cả dân tộc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

- Đảng Cộng sản là tổ chức biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc.

- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – chính trị của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng chủ yếu làm cho Đảng tồn tại và lớn mạnh.

Do đó, Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh của giai cấp công nhân, phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Với một Đảng Cộng sản chân chính, thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.



c.Vai trò của Đảng cộng sản

- Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử, đề ra mục tiêu, đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.

- Đảng giáo dục đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối chính sách của Đảng nhằm hoàn thành thắng lợi những mục tiêu đã đề ra, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó

a. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản hoặc tiền tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo cùng với nhân dân lao động đứng lên xây dựng một xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh.

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu theo hai nghĩa:

+ Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, cuộc cách mạng này kết thúc khi giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+ Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó bắt đầu bằng một cuộc cách mạng chính trị nhằm để giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động và kết thúc khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Tất cả các cuộc cách mạng diễn ra trong lịch sử xét cho cùng, đều bắt nguồn từ nhu cầu khách quan, đó là nhằm giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất lỗi thời.

Tương tự như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa xuất phát từ sự phát triển vượt trội của lực lượng sản xuất trong xã hội đương thời. Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là nguồn gốc tạo nên đối kháng giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, những mâu thuẫn trên ngày càng trầm trọng đưa đến khả năng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi trong từng nước và ở khâu yếu nhất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa khi có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan.

2. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

a. Mục tiêu giai đoạn một của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính quyền về tay nhân dân. “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng” (V.I.Lênin).

Mục tiêu giai đoạn hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người khỏi áp bức nô dịch, giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ và tiếp tục phát triển, xây dựng một xã hội mới trên cơ sở công bằng, dân chủ, văn minh. Khi mà “Xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”.



b. Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đấu tranh giành chính quyền. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: không ngừng nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao động, mở rộng dân chủ, thu hút nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, làm cho nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân.

Trên lĩnh vực kinh tế: Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định là ra sức phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Muốn vậy đòi hỏi: phải thay đổi vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất bằng việc thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới nhiều hình thức thích hợp, gắn người lao động với tư liệu sản xuất; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, để không ngừng nâng cao năng suất lao động, tạo của cải dồi dào cho xã hội; thực hiện phân phối theo lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa văn minh trên thế giới, cách mạng xã hội chủ nghĩa từng bước xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, có hiểu biết, có năng lực làm chủ xã hội.

c. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi xiềng xích nô lệ, nên động lực cách xã hội chủ nghĩa cũng chính là giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động.

- Giai cấp công nhân:

Là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng tiên tiến và cách mạng. Thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân càng giác ngộ về lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, do đó giai cấp công nhân vừa là động lực cơ bản, chủ yếu, vừa giữ vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là yếu tố quyết định hàng đầu, đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Giai cấp nông dân:

Là giai cấp có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân. Với số lượng đông đảo trong dân cư, đây là động lực cách mạng to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khi được đại đa số nông dân tham gia ủng hộ, đây là điều kiện đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước, đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi.

- Tầng lớp trí thức:

Tầng lớp trí thức không đại biểu cho bất kì một phương thức sản xuất nào, không có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ cho chế độ nào thì mang ý thức hệ của giai cấp đó.

Trong đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, trí thức có vai trò rất quan trọng. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách đó.

Trong cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lượng giá trị chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức ngày càng cao.

3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

a. Tính tất yếu, cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác…

- Tính tất yếu …

+ Khi tổng kết phong trào công nhân ở Châu Âu nhất là ở Anh, Pháp nửa cuối thế ky XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra nguyên nhân thất bại là do giai cấp công nhân không liên minh được với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là giai cấp nông dân. Do đó, giai cấp công nhân luôn luôn đơn độc và cách mạng vô sản đã trở thành “bài ca ai điếu”.

+ Trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin vận dụng và phát triển nguyên lý liên minh công, nông của C.Mác –Ph.Ăngghen và đã giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga 1917.

V.I.Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân không chỉ liên minh với nông dân mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác như tiểu thương, thợ thủ công, trí thức… để tạo thành sức mạnh, hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I. Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v…” (V.I.Lênin:Toàn tập-1997, tập38, tr.452).

+ Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I. Lênin đặc biệt lưu ý mối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị – xã hội, là yếu tố quyết định trước tiên trong cách mạng x hội chủ nghĩa.



- Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh …

+Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đều là những người lao động, đều bị áp bức bóc lột. Do vậy giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dễ dàng thông cảm, dễ dàng liên minh với nhau để chống kẻ thù chung là giai cấp tư sản.

+Thứ hai, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất chính trong xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này không thể phát triển được. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và bà con nông dân. Nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho toàn xã hội, tạo ra nông sản phục vụ cho công nghiệp. V.I.Lênin khẳng định: “ Công xưởng xa hội hóa sẽ cung cấp những sản phẩm của mình cho nông dân và nông dân lại cung cấp lại lúa mì. Đó là hình thức tồn tại duy nhất có thể được của xã hội xã hội chủ nghĩa, là hình thức duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

+Thứ ba, xét về mặt chính trị – xã hội giai cấp công nhân và những người lao động khác là lực lượng chính trị to lớn trong xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nước, trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Do vậy có thể nói giai cấp nông dân là người bạn “tự nhiên”, tất yếu của giai cấp công nhân.

b. Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác…

- Liên minh về chính trị: trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác là cùng nhau tham gia vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến trung ương, cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh.

Khối liên minh này trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành nòng cốt trong mặt trận dân tộc thống nhất.



- Liên minh về kinh tế: Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất, vì có liên minh về kinh tế chặt chẽ mới thực hiện được sự liên minh trong các lĩnh vực khác.

V.I.Lênin đã chỉ ra nội dung chủ yếu của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là liên minh về quân sự, thì khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là liên minh về kinh tế.

Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai cấp. Hoạt động kinh tế phải vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước, của xã hội, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích của giai cấp nông dân. Nếu kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội, nó trở thành một động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển, ngược lại nó trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội.

Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên quan tâm tới xây dựng một hệ thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn.

Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô viết, V.I.Lênin không chỉ quan tâm tới xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, mà ông còn quan tâm tới xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với tàng lớp trí thức. V.I.Lênin cho rằng: “ Nếu không quan tâm tới điều đó thì không thể xây dựng được một nền sản xuất công nghiệp hiện đại” và không thể đứng vững được trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Và “ Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.(V.I.Lênin:Toàn tập-1978, tập 40, tr.218)

- Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh…

Nội dung văn hóa-xã hội là một nội dung quan trọng trong xây dựng khôi liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Điều đó được cắt nghĩa bởi các lý do sau đây:



+ Một là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên một nền tảng công nghiệp hiện đại. Những người mù chữ, những người có trình độ văn hóa thấp không thể tạo ra được một xã hội như vậy.

+ Hai là, chủ nghĩa xã hội với mong muốn xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo, quan hệ giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác là quan hệ hữu nghị tương trợ lẫn nhau. Điều đó chỉ có thể có được trên cơ sở một nền văn hóa phát triển của nhân dân.

+ Ba là, chủ nghĩa xã hội tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao đông tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Nhân dân muốn thực hiện được công việc quản lý của mình cần phải có một trình độ văn hóa, phải hiểu biết về chính sách, pháp luật.

Theo V.I.Lênin cuộc đấu tranh khắc phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, trì trệ, thói quan liêu cửa quyền là một công việc khó khăn, vì “kẻ thù ở ngay chúng ta là chủ nghĩa tư bản vô chính phủ và việc trao đổi hàng hóa vô chính phủ”. Đây là kẻ thù giấu mặt, chúng ta khó nhận ra và phải traỉ qua một thời kỳ lâu dài “…không thể thực hiện nhanh được như nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ quân sự”.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định, do phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, để thực hiện việc thỏa mãn lợi ích kinh tế cả trước mắt và cả lâu dài, cơ bản của xã hội. Như vậy, sự liên minh về kinh tế là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định.

c. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác

Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải đảm bảo những nguyễn tắc sau:



- Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong khối liên minh.

Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng đoc lập. Do đó, chỉ đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “…chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội



- Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.

V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản Nga là phải bằng những việc làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác mới bền vững và lâu dài.



- Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích.

Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác có những lợi ích cơ bản là thống nhất: họ đều là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ. Song giữa các giai tầng này là những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác gắn với chế độ tư hữu nho, mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này, phải chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông dân, các tầng lớp lao động khác. Sau nội chiến ở Nga, V.I.Lênin đã áp dụng chính sách kinh tế mới, thay chính sách trưng thu lương thực thừa, bằng chính sách thuế lương thực. Nhà nước quy định nghĩa vụ đóng thuế lương thực cho nông dân, sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nông dân tự do trao đổi phần lương thực thừa. Điều đó đã phát huy được tính tích cực của người nông dân, đã nhanh chóng đưa nước Nga thoát khỏi những khó khăn sau thời kỳ nội chiến. V.I.Lênin cho rằng: “ Chúng ta phải để cho nông dân, với tư cách là người sản xuất nhỏ có được một phạm vi tự do khá lớn. Không nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta không thể giải quyết được tình hình lương thực”( Sđd,tập 43, tr.373), cần phải có những nhượng bộ nhất định đối với nông dân.




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương