Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin


Chương VI HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC



tải về 1.73 Mb.
trang12/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   20

Chương VI

HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

1. Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền

Nghiên cứu CNTB trong giai đoạn tự do cạnh tranh, Mác đã dự báo: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất sẽ dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Lênin nhận định về sự hình thành CNTB độc quyền là do:

- Tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất của CNTB phát triển cao, dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, từ đó hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đã dẫn đến nâng cao năng suất lao động, tăng tích lũy, hình thành những xí nghiệp quy mô lớn, tạo điều kiện hình thành các tổ chức độc quyền.

- Do sự tác động bởi các quy luật kinh tế cơ bản của CNTB như: quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy, quy luật cạnh tranh…làm thay đổi cơ cấu kinh tế của nền sản xuất tư bản theo hướng tập trung quy mô lớn.

- Cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi tích tụ và tập trung sản xuất, đồng thời làm phá sản những nhà sản xuất nhỏ, hoặc gia nhập những tổ chức kinh tế lớn, từ đó tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền ra đời.

- Những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên, làm phá sản các xí nghiệp nhỏ, thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung.

- Sự phát triển của hệ thống tín dụng và thị trường chứng khoán, góp phần hình thành các doanh nghiệp lớn và các công ty cổ phần, có khả năng chi phối nền kinh tế.



2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Vào đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ, xuất hiện những tổ chức kinh tế lớn, chi phối một số ngành như điện lực, khai khoáng, chế tạo máy, dầu lửa, sắt thép…các tổ chức kinh tế này có quy mô lớn, nên khó bị đánh bại trong cạnh tranh, từ đó dẫn đến sự thỏa hiệp, liên kết, để nắm giữ độc quyền một số ngành. Như vậy, tổ chức độc quyền kinh tế là những doanh nghiệp lớn, hoặc liên minh của các nhà tư bản lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại sản phẩm, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

Để liên kết giữa các nhà tư bản nhằm tạo thể độc quyền. họ có thể thực hiện dưới các hình thức như:

- Liên kết dọc, tức liên kết giữa các nhà tư bản trong cùng ngành sản xuất, kinh doanh.

- Liên kết ngang là liên kết giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất, kinh doanh khác nhau.

b. Các tổ chức độc quyền ra đời và phát triển từ thấp đến cao, dưới các hình thức cơ bản sau:

- Các-ten (cartel) là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp thành viên để thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, thời hạn thanh toán… còn việc sản xuất và tiêu thụ vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện.

- Xanh-đi-ca (Syndicat) là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc lưu thông, tiêu thụ sản phẩm do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành viên.

- Tờ-rớt (Trusts) là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài chính đều do một ban quản trị quản lý, điều hành. Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo giá trị cổ phần đóng góp và hiệu quả kinh doanh.

- Công-xóoc-xi-om (Comsortium) là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxóocxiom khong chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một côngxóocxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên ket trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù. Nó có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của một nước.

- Công-gô-lô-mê-rát (Conglomerate) là liên minh độc quyền mang tính quốc tế, nó hoạt động và chi phối ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau và ảnh hưởng đến nhiều nước. Ngày nay các Công-gô-lô-me-rát chính là các tập đoàn tư bản tài chính quốc tế, có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều nước.



c. Tư bản tài chính

Khi hình thành các tổ chức độc quyền trong công nghiệp, thì đồng thời trong ngân hàng cũng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản với quy mô lớn, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Cạnh tranh làm cho các ngân hàng nhỏ bị phá sản, hoặc phải sát nhập vào những ngân hàng lớn, ngoài ra các tổ chức độc quyền trong công nghiệp đòi hỏi phải có những ngân hàng lớn để đáp ứng vốn cho nó, từ đó các tổ chức độc quyền trong ngân hàng ra đời.

Sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền lớn về ngân hàng, làm thay đổi vai trò của ngân hàng, từ chỗ chỉ là trung gian trong thanh toán và tín dụng, đến nay đã nắm giữ và chi phối một lựơng lớn tư bản tiền tệ, từ đó có thể chi phối, khống chế các tổ chức độc quyền công nghiệp và các hoạt động của nền kinh tế. Trước sự chi phối ngày càng lớn của các tỏ chức độc quyền trong ngân hàng, các tổ chức độc quyền trong công nghiệp tìm cách xâm nhập vào hoạt động của ngân hàng, hoặc thành lập ngân hàng riêng để huy động vốn. Quá trình liên kết giữa các tổ chức độc quyền trong công nghiệp với các tổ chức độc quyền trong ngân hàng, đã hình thành các tập đoàn tư bản tài chính. Lênin gọi là bọn đầu sỏ tài chính.

Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động kinh tế thông qua chế độ tham dự, bằng cách mua và nắm giữ cổ phiếu khống chế trong các “công ty mẹ”, tiếp theo các công ty này lại chi phối các “công ty con”…từ đó giúp cho các tập đoàn đầu sỏ tài chính có thể chi phối một lượng tư bản lớn hơn nhiều lần so với số vốn của nó. Ngoài ra, tư bản tài chính còn phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, đầu cơ bất động sản…để tăng quy mô vốn và thu lợi nhuận cao.

Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động chính trị thông qua việc đưa người vào bộ máy nhà nước, hoặc mua chuộc hối lộ các viên chức nhà nước, để chi phối đường lối, chính sách của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích cho các tập đoàn tư bản tài chính.

d. Xuất khẩu tư bản

Xuất khẩu tư bản là đầu tư tư bản ra nước ngoài, nhằm thu được lợi nhuận cao từ các nước nhập khẩu. Nguyên nhân xuất khẩu tư bản trong giai đoạn CNTB độc quyền là do:

- Các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản tài chính lớn đã tích lũy được một lượng lớn tư bản và có một lượng tư bản “thừa” cần đầu tư ra nước ngoài nhằm thu lợi nhuận cao hơn so với đầu tư ở trong nước.

- Các nước còn kém phát triển thường thiếu vốn đầu tư trong khi lại có nguồn nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ, từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.

Xuất khẩu tư bản có thể nhà nước hoặc tư nhân thực hiện, dưới hai hình thức chủ yếu là:

- Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) được thực hiện dưới hình thức tư bản nước ngoài mua lại các doanh nghiệp của nước sở tại, đầu tư mới 100% vốn, hoặc góp vốn cổ phần với nhà nước hoặc tư nhân của nước sở tại.

- Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức mà các tập đoàn tư bản tài chính cho chính phủ, doanh nghiệp nước ngoài vay vốn, hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán ở nước ngoài.

- Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư sản dùng nguồn vốn ngân sách để đầu tư ra nước ngoài, hoặc cho vay. Nhà nước cũng dùng ngân sách để viện trợ ưu đãi, hoặc viện trợ không hòan lại, nhằm thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị, quân sự.

- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do các tập đoàn tư bản tài chính tư nhân thực hiện, thường được đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao, khả năng thu hồi vốn nhanh.

e. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền

Khi các tập đoàn tư bản tài chính mở rộng xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các tập đoạn tư bản, từ đó đòi hỏi phải có sự phân chia thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Thị trường của các nước đang phát triển là nơi có nhiều tiềm năng và nguồn lực to lớn, có thể đem lại lợi nhuận cao cho các tập đoàn tư bản tài chính, từ đó dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt và phân chia lại thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Sự phân chia thị trường thế giới giúp cho các tập đoàn tư bản tài chính củng cố vị trí độc quyền, đảm bảo lại ích cho các tổ chức độc quyền, hạn chế thiệt hại.



f. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền lớn, vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn, đồng thời do sự phát triển không đều về kinh tế, quân sự dẫn đến thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc, như sự phát triển nhanh chóng của Đức, Nhật, Ý, đòi phân chia lại thuộc địa với các nước như: Anh, Pháp, từ đó dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), để phân chia lại thuộc địa giữa các nước đế quốc.

Sự phân chia lãnh thổ ngày nay, không phải bằng xâm chiếm thuộc địa như trước đây, mà thông qua chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự, dẫn đến các nước kém phát triển phải lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển cả về kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao.

3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền.

a. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh

Trong giai đoạn độc quyền cạnh tranh vẫn không bị xóa bỏ, mà còn gay gắt, quyết liệt, đa dạng và có những tác động nghiêm trọng. Cạnh tranh trong giai đoạn độc quyền bao gồm:

- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau: bao gồm cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, hoặc giữa các tổ chức độc quyền ở trong ngành có liên quan với nhau. Sự cạnh tranh này thường dẫn đến sự thỏa hiệp, hoặc liên kết với nhau để đem lại lợi ích chung, đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao.

- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các tổ chức ngoài độc quyền thường làm phá sản hoặc thôn tính các tổ chức ngoài độc quyền.

- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền: thường diễn ra đối với các cổ đông nắm giữ cổ phần lớn, hoặc thành viên hội đồng quản trị, nhằm giành cổ phiếu khống chế để nắm quyền kiểm soát, chi phối các tổ chức độc quyền.

b. Hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư

CNTB độc quyền có những biểu hiện mới, nhưng không vượt ra khỏi các quy luật vận động của CNTB nói chung. Tuy nhiên, trong giai đoạn CNTB độc quyền, các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa TBCN có những biểu hiện mới:

- Về quy luật giá trị: sự thống trị của các tổ chức độc quyền đã dẫn đến việc áp đặt giá cả độc quyền bao gồm: giá cả độc quyền thấp khi các tổ chức độc quyền mua sản phẩm của các nhà sản xuất nhỏ; giá cả độc quyền cao khi các tổ chức độc quyền bán sản phẩm. Giá cả độc quyền vẫn không hoàn toàn thoát ly khỏi giá trị, mà thực chất thông qua giá cả độc quyền mà các tổ chức độc quyền, chiếm đoạt một phần giá trị thặng dư của những người sản xuất nhỏ và thu nhập của người tiêu dùng. Giá cả độc quyền vẫn phải đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất cộng với khoản lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật giá cả độc quyền, chính là sự biểu hiện của quy luật giá trị trong giai đoạn CNTB độc quyền.

- Quy luật giá trị thặng dư: trong giai đoạn CNTB độc quyền, thông qua giá cả độc quyền, các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao. Lợi nhuận độc quyền chính là biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền. Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền bao gồm: phần lao động không công của công nhân trong các xí nghiệp độc quyền; phần lao động không công của các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhỏ bị các tổ chức độc quyền chèn ép; một phần lao động của những người sản xuất nhỏ; phần lao động không công của công nhân ở các nước mà các tổ chức độc quyền đầu tư. Như vậy, quy luật lợi nhuận độc quyền chính là biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư, trong giai đoạn CNTB độc quyền.



II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

1. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

a. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là khuynh hướng tất yếu. Do những nguyên nhân sau đây:



Một là, Tích tụ và tập trung tư bản tăng dẫn đến sự ra đời của các tổ chức kinh tế lớn, đòi hỏi phải có sự điều tiết, can thiệp mạnh mẽ của nhà nước. Nói cách khác, lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hóa cao dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất mạng tính chất tư nhân TBCN, do đó tất yếu phải có sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất, từ đó CNTB độc quyền nhà nước ra đời.

Hai là, Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến hình thành một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư nhân, không muốn đầu tư và phát triển do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận như: nghiên cứu vũ trụ, khoa học cơ bản, giao thông, năng lượng…từ đó đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước, hình thành các tổ chức kinh tế của nhà nước trong các ngành trên, làm cho CNTB độc quyền nhà nước ra đời.

Ba là, sự chi phối và thống trị của các tổ chức độc quyền tư nhân, đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản với vô sản và các tầng lớp nhân dân, đòi hỏi nhà nước phải can thiệp thông qua những hình thức như: nâng cao phúc lợi xã hội, điều tiết thu nhập, trợ cấp thất nghiệp…để xoa dịu những mâu thuẫn.

Bốn là, Sự bành trướng và phát triển của các liên minh độc quyền quốc tế, đã dẫn đến nhứng mâu thuẫn và xung đột giữa các nước tư bản với nhau, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền quốc tế với các nước. Do đó, phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào các quan hệ kinh tế đối ngoại.

Ngoài ra, do mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau dẫn đến những cuộc chiến tranh thế giới, đồng thời để chống lại ảnh hưởng của phong trào XHCN, mở đầu là cách mạng Tháng Mười Nga, từ đó đòi hỏi phải tăng cường sự can thiệp và điều tiết của nhà nước, dẫn đến sự ra đời của CNTB độc quyền nhà nước.



b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Nếu nói ngắn gọn thì CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân, với sức mạnh của nhà nước tư sản, hình thành một thiết chế và thể chế thống nhất, nhằm phục vụ trước hết lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB.

Nói cụ thể, CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của CNTB nói chung và CNTB độc quyền nói riêng. Nó là sự thống nhất của ba quá trình: Tăng cường sức mạnh cho các tổ chức độc quyền; tăng cường vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế; kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước, trong đó nhà nước bị chi phối và phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền tư nhân.

Trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước tư bản đã trở thành một nhà tư bản khổng lồ, sở hữu những doanh nghiệp lớn, góp vốn cổ phần vào các tập đoàn tư bản, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, thuê mướn và bóc lột lao động làm thuê…Tuy nhiên, ngoài chức năng của nhà tư bản, nhà nước tư sản có có chức năng chính trị, sử dụng các công cụ bạo lực để trấn áp xã hội, đồng thời thực hiện một số chức năng xã hội để xoa dịu mâu thuẫn.

Như vậy, CNTB độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội trong giai đoạn CNTB độc quyền, chứ không phải là một chính sách nhất thời.

Như chúng ta biết, bất kỳ một nhà nước nào cũng đều có vai trò kinh tế nhất định, song do có sự khác nhau về bản chất của mỗi một chế độ xã hội và sự phát triển ở từng giai đoạn, mà nhà nước có vai trò kinh tế khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, nhà nước ít can thiệp vào kinh tế, chủ yếu sử dụng cộng cụ luật pháp và thuế, đến giai đoạn CNTB độc quyền và độc quyền nhà nước, nhà nước không chỉ can thiệp sâu vào các họat động kinh tế, điều tiết các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, đồng thời còn nắm giữ và chi phối khu vực kinh tế của nhà nước.

Tóm lại: CNTB độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN trong giai đoạn độc quyền nhằm xoa dịu những mâu thuẫn, thích nghi với điều kiện mới, đồng thời duy trì sự tồn tại của CNTB.

2. Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

a. Sư kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền với nhà nước

CNTB độc quyền nhà nước ra đời đã dẫn đến tình trạng: Một số cá nhân, hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng.

Sự kết hợp về nhân sự còn được thực hiện thông qua các Hội chủ doanh nghiệp, các hội này nắm trong tay nguồn lực kinh tế lớn, từ đó chi phối, chính sách kinh tế và đường lối chính trị có lợi cho các tổ chức độc quyền và các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Trong một số giai đoạn vai trò của các hội này rất lớn, mà người ta gọi chúng là: Quyền lực thực tế đằng sau quyền lực chính quyền, chính phủ đằng sau chính phủ.

Thông qua các Hội chủ doanh nghiệp, mà các tổ chức độc quyền đưa người vào trong bộ máy của nhà nước, nắm giữ các chức vụ quan trọng, đồng thời nhà nước cũng “cài” người vào trong các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ chính thức hoặc danh dự, từ đó trở thành người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền, cứu nguy cho các tập đoàn tư bản khi cần thiết. Sự kết hợp và xâm nhập này, phản ánh sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền với bộ máy của nhà nước.

Ngày nay sự kết hợp về nhân sự được thực hiện qua việc các tập đoàn tư bản tài chính, tài trợ tiền cho các nghị sĩ, hoặc ứng cử viên tổng thống khi tranh cử, từ đó sẽ chi phối các nhân vật này sau khi trúng cử.

b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời và phát triển thì sở hữu nhà nước cũng đựơc tăng cường. Sở hữu nhà nước độc quyền là sở hữu của tập thể giai cấp tư bản độc quyền, nó ủng hộ và phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền. Sở hữu độc quyền nhà nước không chỉ tăng về quy mô, mà còn kết hợp với sở hữu độc quyền tư nhân, để tăng thêm sức mạnh về kinh tế.

Sở hữu độc quyền nhà nước bao gồm: Tài nguyên, bất động sản, động sản, những doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ vốn 100% hoặc vốn của nhà nước chi phối, ngân sách nhà nước, các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng như giao thông, năng lượng, bảo hiểm xã hội, giáo dục, y tế…

Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành dưới các hình thức: nhà nước xây dựng các doanh nghiệp bằng 100% vốn ngân sách của nhà nước; mua lại các doanh nghiệp của tư nhân khi làm ăn thua lỗ; góp vốn cổ phần vào trong các doanh nghiệp của tư nhân; liên doanh, liên kết với nước ngoài…

Sở hữu độc quyền nhà nước có chức năng và nhiệm vụ:

Một là, mở rộng quy mô sản xuất của chủ nghĩa tư bản độc quyền, tạo điều kiện cho sự phát triển của CNTB. Chức năng này được thể hiện thông qua việc nhà nước đầu tư phát ở các lĩnh vực mà tư nhân không không có khả năng đầu tư, không muốn đầu tư, hoặc đầu tư không hiệu quả.

Hai là, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức độc quyền tư nhân đầu tư vào những ngành có hiệu quả. Hỗ trợ các tổ chức độc quyền khi gặp khó khăn.

Ba là, sở hữu độc quyền nhà nước là chỗ dựa về kinh tế của nhà nước, để điều tiết các hoạt động kinh tế, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, chống đỡ khủng hoảng và đảm bảo lợi ích cho các tập đoàn tư bản tư nhân.

Sở hữu độc quyền nhà nước biểu hiện ra bên ngoài như là sở hữu “ có tính xã hội”, nhưng thực chất vẫn là sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu nhà nước vẫn phục vụ quyền lợi cho các tập đoàn tư bản độc quyền lớn. Người lao động dù có cổ phần trong các doanh nghiệp của nhà nước, thì cổ phần đó chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, bản thân họ vẫn là người lao động làm thuê.



c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước, nhà nước đã tham gia tích cực vào việc điều tiết các hoạt động kinh tế. Khi nghiên cứu vai trò của nhà nước trong giai đoạn CNTB độc quyền, Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, do tình hình thực tế thúc bách, nhà nước đã tăng cường điều tiết đối với các hoạt động sản xuất và phân phối.

Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản độc quyền thông qua những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý của nhà nước, gắn với hệ thống chính sách, công cụ để điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế, nhằm đảm bảo lợi ích cho các tập đoàn tư bản độc quyền, đồng thời giải quyết một số mâu thuẫn về kinh tế, xã hội. Ví dụ trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây, và những xung đột quân sự ở một số khu vực hiện nay, nhà nước tư sản đã giúp cho các tập đoàn tư bản sản xuất vũ khí thu hàng tỷ đô la lợi nhuận.

Ngày nay, hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản được thực hiện dưới các hình thức như: hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, dự báo, kế hoạch…đồng thời sử dụng các công cụ luật pháp, kinh tế và hành chính, kết hợp với ưu đãi và trừng phạt. Chính sách kinh tế của nhà nước tư sản ngày nay, bao gồm: Chính sách chống khủng hoảng kinh tế, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách chống lạm phát, chính sách hỗ trợ các tập đoàn tư bản khi gặp khó khăn…ngoài chính sách kinh tế, nhà nước tư sản cũng thực hiện một số chính sách xã hội như: trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập, tăng phúc lợi xã hội, để giải quyết mâu thuẫn xã hội. Để thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội, nhà nước tư sản sử dụng các nguồn lực và công cụ như: ngân sách nhà nước, thuế, đầu tư, hỗ trợ, hệ thống tài chính-tiền tệ, nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước.



III. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN.

1. Vai trò của CNTB đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

Sự phát triển của CNTB từ giai đoạn tư do cạnh tranh, đến giai đoạn độc quyền, độc quyền nhà nước, nếu chưa xét đến những mặt trái của nó, thì CNTB đã có những đóng góp tích cực đối với nền sản xuất xã hội



Một là, Phát triển sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao năng suất lao động, tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn. Sự ra đời và phát triển của CNTB đã giải phóng loài người thoát khỏi “đêm trường trung cổ”, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, đồng thời phát triển nền kinh tế hàng hóa lớn TBCN. Dưới tác động của quy luật giá trị và giá trị thặng dư, cùng với các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, CNTB đã nâng cao năng suất lao động và tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ, như Các Mác đã khẳng định: CNTB ra đời chưa đầy 100 năm, nhưng nó đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ bằng tất các các xã hội trước cộng lại.

Hai là, Phát triển lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của CNTB, đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật-công nghệ ngày càng được nâng cao, chuyển từ lao động thủ công lên cơ khí hóa, tự động hóa, hiện đại hóa. Ngày nay, các nước tư bản phát triển vẫn là các nước đi đầu trong việc ứng dụng và phát triển những công nghệ mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, là quá trình chinh phục tự nhiên, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, giải phóng sức lao động.

Ba là, thực hiện xã hội hóa sản xuất. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa lớn, CNTB đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Thể hiện qua sự phát triển của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ, tích tụ và tập trung sản xuất, làm cho quá trình sản xuất được liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, hình thành hệ thống sản xuất mang tính xã hội. Đồng thời, mở rộng phân công lao động động và hợp tác quốc tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh tế.

Bốn là, nâng cao trình độ quản lý, hình thành tác phong lao động công nghiệp. Thông qua cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng khoa học kỹ thuật, CNTB đã nâng cao dần trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, xóa bỏ nề nếp, thói quen của người sản xuất nhỏ, hình thành tác phong lao động công nghiệp.

Năm là, thiết lập nền dân chủ tư sản. CNTB đã xây dựng và thiết lập nền dân chủ tư sản, hơn hẳn so với hệ thống chính trị của chế xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, mở đường cho sự phát triển của chế độ xã hội mới tự do, dân chủ và văn minh.

Tóm lại: sự phát triển của CNTB, với những đóng và thành tựu của nó đối với các lĩnh vực kinh tế và xã hội, đã tạo những điều kiện, tiền đề cần thiết cho sự ra đời, xây dựng và phát triển của CNXH. Tuy nhiên, sự ra đời của CNXH không phải diễn ra một cách tự nhiên, tự phát, mà phải thông qua cuộc cách mạng xã hội, cuộc cách mạng này có thể diễn ra bằng phương pháp hòa bình, hay bạo lực, phải tùy theo bối cảnh quốc tế ở từng thời điểm, điều kiện cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn.




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương