BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC



tải về 2.53 Mb.
trang5/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28
homoiomeria (xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ homoios là sự tương đồng). Những hạt giống của máu chứa đựng tất cả chất của máu như chất trội, chất căn bản, để ta gọi là máu. Tương tự như vậy với sắt, đồng… Hạt giống vĩnh cửu, bất biến, nhưng các sự vật liên kết với nhau, chuyển hóa vào nhau bằng con đường kết hợp và phân tích theo nguyên tắc “mọi thứ trong tất cả, và trong tất cả có một phần của tất cả”. Người ta không thể dùng rìu mà cắt rời nóng khỏi lạnh, lạnh khỏi nóng, càng không thể dùng sức mạnh phá vỡ toàn thể vũ trụ như một khối thống nhất, bao gồm v6 số càc sự vật, hiện tượng liên kết với nhau, hút nhau hoặc đẩy nhau, đan xen nhau. Tồn tại thống nhất, nhưng không thống nhất tuyệt đối như cách hiểu của trường phái Elê. Sự vật thống nhất trong tính toàn vẹn, nhưng những yếu tố cấu thành chúng hết sức đa tạp. Sự vật vừa vô cùng lớn, vừa vô cùng bé, vì “không có cái bé nhất, chỉ có cái bé hơn và bé hơn nữa”. Tuy nhiên quan niệm về chuyển hóa của Anaxago không phải là tư tưởng biện chứng thực sự về thế giới, vì ông bác bỏ sự chuyển hóa thường xuyên của các mặt đối lập. Ông nhấn mạnh:”Cái đồng nhất xuất phát từ cái đồng nhất, không thể có sự chuyển hóa vào mặt đối lập” (Hêghen: Toàn tập, t. 9, Nxb Chính trị, Mátxcơva, - Lêningrát, 1934, tr. 331, tiếng Nga). Mọi sự thay đổi đối với Anaxago chỉ là sự kết hợp và tách rời những cái đồng nhất, còn sự thay đổi đích thực thì bị coi như sự phủ định chính mình. Ông chỉ biết rằng “thịt chuyển thành thịt, vàng chuyển thành vàng, còn mọi sự kết hợp khác chỉ là một conglomeratus (kết hợp) gượng ép, vô trật tự, chứ không phải là phép cấu thành sống động” (Hêghen, sđd, t. 9, tr. 331).

Cũng như Empeđốc, Anaxago cần đến một bản nguyên tinh thần làm động lực cho quá trình thế giới. Bản nguyên đó là Nous, hiểu như trí tuệ bên ngoài, tác động đến vạn vật, khởi động và nhận thức thế giới, làm cho thế giới trở nên hoàn chỉnh, thoát khỏi trạng thái hỗn động ban đầu. Theo nghĩa hẹp nous là trí tuệ, trí năng, nhưng ở Anaxago nó được lý giải như bản chất tuyệt đối, đơn giản, duy nhất, vô hạn, tồn tại trong tất cả, mà lại không hòa lẫn với bất lỳ sự vật nào, là cái tinh khiết giữa lòng vạn vật, hiểu biết và thâu tóm tất cả, chi phối quá khứ, hiện tại, tương lai, làm cho thế giới trở nên một chỉnh rhể sống động. Nous - Trí tuệ vũ trụ. Nous là khái niệm nền tảng dùng để lý giải quá trình tự nhiên. Trước tiên Nous đưa hỗn hợp vật chất từ trạng thái hỗn mang vào vận động theo vòng trònCái lỏng lẻo tách khỏi cái đông đặc, nóng tách khỏi lạnh, sáng tách khỏi tối, khô tách khỏi ướt. Những gì đông đặc, ẩm ướt, tối và nặng tích tụ lại ở trung tâm vũ trụ, hình thành nên Trái đất. Những gì lỏng lẻo, khô, sáng, nhẹ và nóng thì nổi lên trên, tạo ra bầu trời. Ete, vốn hình thành trước đó, ôm lấy vũ trụ (Aither trong từ nguyên Hy Lạp được hình dung như tầng khí sáng rực trên cùng, nơi các vị thần cư ngụ. Trong triết học Hy Lạp cổ đại có hai cách hiểu về Aither: yếu tố vật chất ban đầu, hoặc vận động vĩnh cửu). Sự vận động tiếp theo làm cho đá tách khỏi đất. Đá bốc cháy, tạo nên các vì sao, Mặt trăng, Mặt trời. Mặt trời là một khối sắt, hay đá, bị đốt nóng, có kích thước to hơn xứ Pêlôpônét. Bầu trời dày đặt những khối đá, bám vào nó nhờ vận động theo vòng tròn với tốc độ cực lớn, song không sớm thì muộn cũng sẽ rơi, mà bằng chứng là những thiên thạch vẫn rơi đều đều, từ năm này sang năm khác. Nếu vận động dừng lại Trái đất sẽ bị vùi lấp bởi tất cả những thiên thạch cùng rơi một lúc. Mặt trăng có những đặc tính gần như Trái đất, cũng có bình nguyên, núi đồi, thung lũng, vực sâu, có cả cư dân nữa. Trái đất có dạng mặt phẳng, bồng bềnh trôi trên không khí, chứ không phải trên nước như Talét nghĩ. Như vậy dù nói đến bản nguyên Nous, song sự phân tích tiếp theo của Anaxago lại làm sáng tỏ “nguyên nhân tự nhiên” của thế giới. Xôcrát phàn nàn:”Thực tế càng đọc nhiều tôi càng thấy một người (Anaxago) không đếm xỉa gì đến Thần tính, hơn nữa không gán cho thần tính một vai trò nào trong các nguyên nhân riêng biệt của tổ chức các sự vật… khiến cho ta phải chưng hửng” (Platôn Phêđôn, bản dịch của Trịnh Xuân Ngạn, Nxb Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr. 249). :

3. Nguyên tử luận duy vật

Nguyên tử luận là chương mới trong triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đai, do Lơxíp (Leucippos, 500 - 440 TCN) sáng lập, Đêmôcrít (Democritos, 460 - 370 TCN) phát triển, Vào thời kỳ Hy Lạp hóa Epiquya (Epicuros, 342/341 - 271/270 TCN) điều chỉnh và nhân bản hóa theo xu hướng thống nhất với duy cảm luận, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa khoái lạc.

Đêmôcrít sinh tại Apđerơ (Abdere), thuộc xứ Tơraxơ (Thrace). Dù lớn lên trong gia đình giàu có, nhưng Đêmôcrít từ bỏ cuộc sống an nhàn để chu du khắp nơi. Ông từng có mặt ở Ai Cập, Ba Tư, An Độ, Babilon, tiếp thu nhiều kiến thức bổ ích về toán học, thiên văn. Trở lại Hy Lạp, ông đến Aten, tham dự các buổi thuyết giảng của Anaxago, gặp gỡ Xôcrát, nhưng không tán thành quan điểm của ai cả. Đêmôcrít viết khoảng hơn 70 tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm còn được lưu giữ qua những trích đoạn như Về tư6 nhiên, Về lý trí, Về trạng thái cân bằng của tinh thần, Về bản tính con người, Về hình học, Về nhịp điệu và hòa hợp, Về thi ca, Về hội họa, Về binh nghiệp, Về khoa chữa bệnh …

Ở khía cạnh bản thể luận thuyết nguyên tử được xây dựng trên cơ sở thừa nhận nguyên tử, với tính cách là tồn tại, khoảng không, hay hư không, hư vô, là những bản nguyên thế giới. Arixtốt viết về cách hiểu này trong Siêu hình học:”…Lơxíp và người kế tục ông, Đêmôcrít, thừa nhận cái đầy đặn - nén chặt và cái trống rỗng - phân tán như những bản nguyên, một gọi là tồn tại, một gọi là không tồn tại…[rằng cái tồn tại tồn tại không nhiều hơn cái không tồn tại, cũng do vậy nên vật thể tồn tại không nhiều hơn khoảng không], còn nguyên nhân vật chất của cái đang tồn tại thì họ quy về cái này lẫn cái kia” (Arixtốt. Siêu hình học, Q. 1, chương 4, 985b 4 - 9).

Ý tưởng về các nguyên tử như những phần tử bé nhất, không phân chia (atomos theo tiếng Hy Lạp là cái bé nhất, không phân chia được nữa), không xuyên thấu, bất biến, không phẩm tính, siêu cảm giác, bền vững và vĩnh cửu, tạo nên cơ sở của mọi tồn tại cụ thể, đồng thời cũng chính là tồn tại, không ngẫu nhiên xuất hiện, mà gắn liền với những quan sát trực tiếp và suy đoán của các triết gia về các biến đổi diễn ra ở các sự vật, các hiện tượng xung quanh con người, chẳng hạn sự đông đặc và nóng chảy, sự ăn mòn, sự bốc hơi …Có vô số các hiện tượng diễn ra mà ta không nhìn thấy, nhưng chúng có khắp mọi nơi, làm nên tính phổ biến của vũ trụ. Trực quan sinh động và suy tư triết học đã đưa các nhà nguyên tử luận đến quan điểm sau: sự khác nhau của các nguyên tử về hình dáng, kích thước, trật tự, vị trí …là sự lý giải đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế giới vật chất. Đêmôcrít xem vận động là thuộc tính của các nguyên tử, nó vĩnh cửu và không do ai sinh ra, cũng như các nguyên tử. Các nguyên tử vận động trong không gian, chúng “bay lượn như những hạt bụi li ti, mà ta thường nhìn thấy dưới nắng mai”, “chúng va chạm nhau, đẩy nhau, rồi lại xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan theo những trình tự nhất định, tạo ra những hướng vận động trái chiều nhau” (Hợp tuyển triết học thế giới, t. 1, phần 1, Nxb Tư tưởng, Mátxcơva, 1989, tr. 311, tiếng Nga). Tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân tích sự tự vận động, nguyên nhân tự thân của vận động vật chất, do đó bị Arixtốt phê phán, một sự phê phán, như ta biết, cũng chỉ nhằm chứng minh cho “Động cơ đầu tiên”, tức Thượng đế.

Quan niệm về nguồn gốc vũ trụsự sống được giải thích trên cơ sở thuyết nguyên tử. Vũ trụ là cái toàn thể rộng lớn, do các nguyên tử tạo nên. Chúng bố trí không đồng đều trong không gian, chỗ dày chỗ thưa, chỗ đầy chỗ khuyết. Ở đâu mật độ dày đặc, các nguyên tử đẩy nhau, làm thành cơn lốc vũ trụ. Những nguyên tử lớn và nặng tụ lại ở trung tâm, những nguyên tử nhẹ và bé hơn, hình cầu và trơn trượt, bị đẩy ra ngoại biên. Bầu trời do lửa, khí, các tinh tú, những thứ bị cơn xoáy lốc đẩy ra, tạo thành. Trung tâm vũ trụ là trái đất bất động, các vì sao vận động xung quanh nó với vận tốc như nhau, hợp nên võ bọc vũ trụ to lớn. Trong nguyên tử luận của mình Democritos đề cập đến nhiều thế giới với những khác biệt về kết cấu, hình dáng, tính chất, quá trình xuất hiện và diệt vong v. v. . Sự sống bắt đầu ngay trên trái đất, chứ không phải do những cơn mưa hạt giống từ hành tinh khác rơi xuống, như Anaxagoras hình dung. Hỗn nguyên tĩnh mịch vừa nứt ra, không khí xuất hiện, bên dưới nó lềnh bềnh lớp đất nhão và nhẹ, tựa bùn. Từ lòng đất nổi lên những màng mỏng, giống bọc mủ hay quả bong bóng nước. Chúng được mặt trời làm khô dần, mặt trăng ấp ủ hằng đêm, cho đến khi vỡ tung; từ trong bọc con người và loài vật bước ra, mỗi loài sở hữu một yếu tố chiếm ưu thế giữa bốn hành chất quen thuộc - đất, nước, lửa, khí. Hành chất trội là cơ sở để phân biệt các loài sống trên mặt đất, dưới nước, trong lòng đất, hay bay trên trời. Lúc mặt đất khô ráo hẳn, các sinh thể trưởng thành, bắt đầu công việc tự tạo tự sinh. Quan hệ giữa con người, loài vật và toàn thể vũ trụ là quan hệ giữa tiểu thế giới và đại thế giới. Sự giống nhau giữa hai thế giới chính là ở chỗ cả hai đều cấu thành từ các nguyên tử.

Quan niệm về nguồn gốc loài người của Đêmôcrít tỏ ra ấu trĩ. Theo ông, con người có ưu thế hơn loài vật vì chứa tích nhiều lửa, với những nguyên tử khác thường, hình cầu, trơn trượt, năng động. So với loài vật con người sở hữu nguồn vật chất tinh khiết hơn, hấp thụ nguồn chất liệu từ bên ngoài nhiều hơn. Các nhà tư tưởng thuộc nguyên tử luận không xem linh hồn như thực thể phi vật chất, mà quy nó về bản chất vật lý, xem như sự liên kết các nguyên tử hình cầu năng động và dễ phát tán. Sự thở là trao đổi thường xuyên các nguyên tử linh hồn và ngoại cẢnh. Thở và ngừng thở được xem như dấu hiệu đặc trưng của sự sống và c1i chết. Chết đồng nghĩa với sự phân giải các nguyên tử linh hồn ra khỏi cơ thể, phát tán trong không khí.

Nguyên tử luận cũng được triển khai vào việc giải thích mối quan hệ tất nhiên - ngẫu nhiên, một trong những mối quan hệ cơ bản của các sự vật, hiện tượng, quá trình. Đêmôcrít không bác bỏ khái niệm cái ngẫu nhiên, mà chỉ phê phán những ai dùng nó làm chiếc lọng che đậy sự nông cạn, phi lý của mình. Sự đối lập tất nhiên - ngẫu nhiên, xét cho cùng, là sự đối lập cái xảy ra “theo tự nhiên” với cái xảy ra “không theo tự nhiên”, “không chủ đích”. Vũ trụ xuất hiện, có nghĩa là tính quy luật, tính tất yếu tự nhiên thay thế trạng thái hỗn độn, ngẫu nhiên. Bản thân từ “vũ trụ” (theo tiếng Hy Lạp - “kosmos”) đã hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác, trật tự, là môi trường rộng lớn, nơi mỗi thực thể đều chiếm một vị trí nhất định. Không có sự chệch hướng, mọi thứ diễn ra theo tính tất yếu tự nhiên; chúng ta truy tìm nguyên nhân của vạn vật, và hiểu rằng vạn vật tồn tại như thế mà không khác đi. Ngẫu nhiên, do đó, bị đồng nhất với phi nhân quả. Tính chất máy móc và mâu thuẫn trong lập luận của Đêmôcrít về quan hệ nhân quả đã rõ. Chỉ nắm vững phương pháp biện chứng thực sự mới tìm hiểu một cách sâu sắc mối quan hệ, liên hệ và chuyển hóa sâu sắc giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, đồng thời chỉ ra giới hạn của chúng.

Bản thể luận và vũ trụ quan của Đêmôcrít ở một khía cạnh nào đó là sự dung hòa giữa Hêraclít và Pácmênhít, theo đó thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng thời là thế giới bền vững, hài hòa, hoàn hảo, được cấu thành từ các nguyên tử. Cách diễn đạt như vậy chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế sự biến đổi mang tính tuyệt đối, sự bền vững về kết cấu vật chất của sự vật là tương đối, có điều kiện. Các nguyên tử tạo nên sự vật lẽ cố nhiên bền vững, theo quan niệm của các nhà nguyên tử luận, song bản thân sự vật, hình thành từ sự kết hợp các nguyên tử, thì biến đổi tự tại. Đêmôcrít mong muốn đứng giữa hai thái cực trong đánh giá các hiện tượng của thế giới, song không biết kết hợp cái hay, cái hợp lý từ lập luận của cả Hêraclít lẫn nhân vật lớn của phái Êlê.

Trong lý luận nhận thức Đêmôcrít phân biệt nhận thức mờ tối và nhận thức chân thực, tương ứng với hai nấc thang cảm tính và tư duy trừu tượng. Cảm giác đem đến cho con người những chất liệu thô, thiếu chọn lọc. Nhận thức mờ tối, hay nhận thức cảm tính, chỉ hướng đến tồn tại bề ngoài của sự vật, mà chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa phân tích nguyên nhân của những cái được tri giác. Những chất liệu thô được tư duy xử lý, cải biến, trở nên hoàn thiện hơn về mặt tri thức, bởi lẽ nó vạch ra tính quy luật bên trong, cơ bản của sự vật. Như vậy nhận thức lý tính là nấc thang cao nhất của “cây thang” nhận thức.

Đêmôcrít chưa phải là người sáng lập lôgíc học, nhưng ông đã đặt nền móng cho nó, xem nó như công cụ giải thích tự nhiên. Arixtốt xem Đêmôcrít như bậc tiền bối của lôgíc quy nạp, để phân biệt với lơgíc diễn dịch của mình. Sau này, vào thế kỷ XVII, Ph. Bêcơn (F. Bacon), người chủ trương phương pháp thực nghiệm - quy nạp, đánh giá cao Đêmôcrít khi cho rằng nhà triết học cổ đại này đã “đi vào tận chiều sâu thăm thẳm của giới tự nhiên”.



Quan điểm đạo đức chính trị của Đêmôcrít phản ánh nỗ lực của con người nhằm duy trì những chuẩn mực xã hội tốt đẹp trong bối cẢnh nền dân chủ chủ nô đang đứng trước nguy cơ khủng khoảng, suy thoái. Trong quan hệ xã hội Đêmôcrít đánh giá cao lòng nhân ái, tình bạnBạn tốt là người xuất hiện khi được mời trong những ngày vui, chủ động đến trong những ngày buồn, những khoẢnh khắc đầy thử thách. Ai không có bạn thì đó là người xấu, vì không biết yêu ai, không ai yêu mình. Để phân biệt Thiện - Ac Đêmôcít nêu ra những cách ngôn như “nhận ra người trung thực và người dối trá không nên chỉ căn cứ vào việc làm của họ, mà cả ước muốn của họ”, “cái qúy của loài vật ở tố chất cơ thể, cái qúy của con người ở tính cách tinh thần”, “người tốt thì tốt cả trong ý nghĩ”, “chính trong bất hạnh ta càng trung thành với nghĩa vụ thiêng liêng”. Đêmôcrít đề cao vai trò của giáo dục, học vấn trong việc hinh thành đức hạnh. Giáo dục tốt nhất trong môi trường gia đình, mà người cha là tấm gương. Giáo dục thống nhất với học vấn. Trìng độ học vấn là thứ trang sức cho người hạnh phúc, là chốn nương thân của kẻ bất hạnh. Triết lý đạo đức của Đêmôcrít xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự như mẫu người quân tử trong triết lý Nho giáo phương Đông. Hiền nhân không màng danh lợi, không ham của cải, lấy “nguồn lực tâm hồn” làm cơ sở cho hành vi. Đêmôcrít đánh giá cao sự trung dung và điều độ trong cuộc sống:”Hãy sử dụng mọi thứ vừa đủ”, “chớ vì muốn biết mọi thứ mà trở thành kẻ mơ hồ (trong nhận thức) đối với mọi thứ”.

Đêmôcrít ủng hộ nhiệt thành nền dân chủ chủ nô, bất chấp tình trạng khủng hoảng của nó. Ông tin tưởng rằng những mâu thuẫn đang nảy sinh trong nền dân chủ sẽ được khắc phục, bởi lẽ, xét về bản chất, sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ vẫn đáng quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi tự do tốt hơn nô lệ. Quyền lực chân chính nhất không nằm trong tay những kẻ giàu sang, mà thuộc về nhân dân, những “nguyên tử xã hội” hùng mạnh.

Đêmôcrít xây dựng học thuyết về tiến bộ lịch sử tự thân của loài người từ trạng thái thú vật sang trạng thái văn minh. Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm của lịch sử, xuất hiện do nỗi sợ hãi của con người trước các hiện tượng bí hiểm của tự nhiên. Thần linh chỉ là những “ngẫu tượng”, là lý trí con người đã được thần thánh hóa. Trong quan hệ tự nhiên - con người Đêmôcrít cho rằng con người từ chỗ mô phỏng, bắt chước tự nhiên đã dần dần tạo ra thiên nhiên cho mình, tức xã hội loài người. Vấn đề nhu cầu được Đêmôcrít giải thích trên quan điểm tiến hóa tự nhiên - lịch sử: quá trình sinh tồn, giao tiếp làm cho lao động và ngôn ngữ trở thành nhu cầu phổ biến. Tên gọi, hay khái niệm, theo Đêmôcrít, xuất hiện lúc đầu một cách ngẫu nhiên, chứ không sẵn có ở sự vật. Quan niệm đó là tiền thân của thuyết duy danh sau này.

Vào thời kỳ Hy Lạp hóa nguyên tử luận tìm thấy người kế thừa ở Epiquya (Epicuros) và trường pháiÊpiquya. Trong Luận án Tiến sỹ của mình (1841) C. Mác chỉ ra hai nét khác biệt giữa triết học Epiquya và triết học Đêmôcrít. Thứ nhất, với Đêmôcrít mọi thứ đều diễn ra một cách tất yếu, hợp quy luật, mọi thứ đều tuân theo một quỹ đạo thống nhất; ngược lại, Epiquya nhấn mạnh sự dao động tự do của các nguyên tử, sự đi chệch khỏi quỹ đạo định sẳn để thể hiện mình như bản thể tự quy. Mác cho rằng Epiquya đã nhân bản hóa vũ trụ nhằm đạt đến tự ý thức về tự do. Sự khác nhau cơ bản giữa hai tên tuổi của triết học Hy Lạp biểu thị sự khác nhau giữa hai thời đại - một thời đại của hưng thịnh và trật tự, một thời đại của suy thoái và loạn lạc, khi con người buộc phải đấu tranh vì chính sự tồn tại của mình, tự tìm kiếm cho mình môi trường tồn tại, dù chỉ nhất thời và chật hẹp. Thứ hai, nguyên tắc dao động tự do của các nguyên tử gắn với chủ nghĩa khoái lạc đặc trưng, với đạo đức học và chủ nghĩa vô thần.



*Tóm tắt và đánh giá chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại

Sự đột phá trong ý thức của người Hy Lạp xưa trước hết gắn liền với nỗ lực vượt qua hình thức tư duy huyền thoại, thay câu hỏi “thế giới này do những vị thần nào tạo tác và cai quản ?” bằng câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và đi (quay) về đâu ?”, mong muốn truy tìm bản nguyên của thế giới thay vì tưởng tượng về một hay nhiều vị hóa công vũ trụ. Đó là biểu hiện của ý chí khám phá thế giới để khẳng định vị trí của con người trong thế giới. Không chấp nhận thói quen ý thức của đại chúng, phần lớn các triết gia đầu tiên đã thế tục hóa sự thông thái thần linh, đề cao lý trí con người, giải thích bản nguyên thế giới từ chính những chất liệu sẵn có của thế giới, những chất liệu mà con người có thể quan sát trực tiếp hoặc cảm nhận được: nước, lửa, khí, đất. Có thể hiểu vì sao sự ra đời của triết học Hy Lạp cũng là sự ra đời của triết học tự nhiên, và cũng là sự ra đời của chủ nghĩa duy vật một cách tự phát. Các nhà duy vật sơ khai là những nhà vật lý theo nghĩa trực tiếp của từ này (physis trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tự nhiên, tăng trưởng v. v. . )

Trong việc lý giải bản nguyên thế giới tồn tại hai phương án khác nhau - phương án “nhất nguyên”, căn cứ trên một yếu tố vật chất nhất định, và phương án “đa nguyên”, căn cứ trên nhiều yếu tố vật chất, chẳng hạn đất, nước, lửa, không khí đối với Empêđốc đều đáng được xem là bản nguyên thế giới, còn đối với các nhà nguyên tử luận thì đó là các nguyên tử vận động trong khoảng hư không.

Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại, với tính cách là hình thức lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật, mang tính chất trực quan, sơ khai và ngây thơ, vì phần lớn những nhận định của nó dựa vào sự quan sát trực tiếp, sự cảm nhận hay suy tưởng của các triết gia, mà chưa được thẩm định về mặt khoa học. Hơn nữa, như ta biết, trong triết học nói chung câu hỏi đúng vẫn tốt hơn là trả lời đúng cho câu hỏi sai. Bản thân cách đặt vấn đề về viên gạch đầu tiên xây nên tòa lâu đài vũ trụ, xét từ quan điểm vật lý học hiện đại, rõ ràng chưa phải là “câu hỏi đúng”. Ở chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại bản nguyên đồng nhất với các yếu tố vật chất cụ thể (nước, lửa, khí, đất) hoặc giả định (apâyrôn, hômoiômeria, nguyên tử). Bên cạnh đó trong một số học thuyết được đời sau gọi là duy vật các yếu tố của tư duy huyền thoại vẫn còn, dù không đóng vai trò chính trong thế giới quan chung. Trong thời kỳ đầu tiên các nhà triết học vẫn cần đến một giá đỡ thần linh để chuyển tải ý tưởng mới lạ của mình mà không quá xa cách với trình độ nhận thức chung của thời đại. Nước ở Talét được nâng lên cấp độ nước “thần” (liên tưởng hình Ảnh thần Đại dương trong thần thoại), là biểu tượng của sự nhất trí và hòa hợp; apâyron là nguyên lý sinh hóa của vạn vật; “khí” không chỉ là yếu tố vật lý, mà còn biểu thị sức sống năng động của vũ trụ và con người, là “sinh khí”; quan niệm về ngày tận thế là sự vận dụng luật bù trừ trong thiên nhiên để giải thích quy luật biến thiên của các hiện tượng; kiếp người thường được liên tưởng tới kiếp của muôn loài - có sinh có diệt, tội ác phải đền bằng cái chết…Yếu tố vật hoạt luận (tất cả các sự vật đều có linh hồn, có thần tính), nhân hình hóa hiện diện ở các học thuyết duy vật thời kỳ muộn hơn. Lôgốt của Hêraclít là sự kết hợp thần linh - vũ trụ - con người. Empêđốc gán các đặc tính tâm lý, tình cảm của con người cho các quá trình bên ngoài con người, theo đó khi Tình yêu chiến thắng vũ trụ đi đến sự hợp nhất, ngược lại, khi Hận thù chiếm lĩnh khắp nơi, vũ trụ bị chia cắt, phân ly. Chịu Ảnh hưởng của thuyết luân hồi và thanh tẩy của phái Oocphây (Orpheus) và huyền học phương Đông, Empêđốc cho rằng linh hồn có thần tính, do phạm tội mà chịu kiếp đọa đày vào thân xác, đầu thai, luân hồi “ba lần mười ngàn năm”, nhờ sám hối, thanh tẩy mới trở lại nơi cư ngụ thần linh của mình trước kia. Anaxago thì cần tới trí tuệ vũ trụ (Nous) để lý giải các quá trình tự nhiên, mặc dù cái bản nguyên tinh thần ấy bị chìm lấp giữa các yếu tố “không can hệ gì đến thần linh”

Tuy nhiên giới hạn của trình độ nhận thức không ngăn cản một số nhà duy vật vượt qua cái cụ thể, cảm tính, mong muốn đi tìm cái chung nhất của tồn tại (apâyrôn của Anaximăngđơ, homoiômeria của Anaxago, và cả “cái không phân chia”, tức nguyên tử, của Lơxíp và Đêmôcrít). Có thể nói các nhà duy vật cổ đại, từ Talét trở đi, đã cố gắng tìm kiếm dấu hiệu tổng quát để diễn đạt bản nguyên thế giới, nghĩa là họ vươn dần đến trình độ khái niệm, trình độ thực thể trong cách hiểu về cơ sở của tồn tại.

Trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại nguyên tử luận chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là điển hình cho tư tưởng duy vật thời bấy giờ. Tính chất điển hình đó được thể hiện ở mấy nét sau: thứ nhất, bằng việc xác định các nguyên tử (tồn tại) và khoảng không (hư vô) là bản nguyên của thế giới, các nhà triết học thuộc nguyên tử luận đã xác lập bức tranh vật lý độc đáo, theo đó tính đa dạng, muôn vẻ của thế giới vật chất xuất phát từ sự khác nhau của các nguyên tử về hình dáng, kích thước, trật tự, vị trí và một số đặc tính khác. Như vậy thế giới tồn tại tự thân, tuân theo quy luật nội tại của mình. Thứ hai, các sự vật, hiện tượng tồn tại và vận động theo tính tất yếu tự nhiên, không chịu sự can thiệp của các lực lượng siêu nhiên. Quan niệm về tính tất yếu tự nhiên của phái nguyên tử mang tính chất máy móc (không thừa nhận vai trò của cái ngẫu nhiên trong tiến trình sự vật), nhưng đã chứa đựng yếu tố tích cực vì thông qua đó bác bỏ thuyết định mệnh, mở đường cho sự giải thích quá trình tự nhiên một cách phi nhân hình, thuần túy vật lý. Thứ ba, các nguyên tắc của thuyết nguyên tử còn được Đêmôcrít vận dụng vào việc giải thích đời sống xã hội và con người. Chẳng hạn Đêmôcrít cho rằng nền dân chủ là chế độ nhà nước ưu việt nhất, vì ở đó quyền lực thuộc về nhân dân mà ông gọi là “những nguyên tử xã hội”. Thứ tư, quan niệm về cái bé nhất (nguyên tử) không đơn giản là kết quả của sự quan sát trực tiếp, mà đòi hỏi óc suy tưởng, trực giác trí tuệ cao, đề vượt qua tính trực quan, vươn đến nấc thang lý trí, đến trình độ khái niệm. Theo Đêmôcrít, chúng ta không quan sát các nguyên tử, mà quan sát các sự vật, từ đó suy niệm về sự hiện diện của chúng Atômốt (Atomos) của Lơxíp và Đêmôcrít trong nhiều thế kỷ đã kích thích sự tìm tòi, khám phá của các nhà khoa học và triết học.

Cuối cùng, so với các nhà triết học tự nhiên sơ khai (Talét, Anaximăngđơ, Anaximen, thậm chí Anaxago, Empêđốc…) triết học tự nhiên của Đêmôcrít đã không còn thuần túy tự nhiên nữa, mà nhân hóa hơn. Epiquya là người đã phát triển nguyên tử luận và nhân bản hóa nó. Thay vì nhấn mạnh tính tất yếu của sự vận động các nguyên tử, Epiquya nhấn mạnh “đao động tự do”, “sự vận động đi chệch quỹ đạo” của chúng, qua đó, theo Mác, nhấn mạnh “tự ý thức tự do”. Nguyên tử luận ở Epiquya còn gắn liền với chủ nghĩa vô thần, duy cảm luận và chủ nghĩa vô thần đặc trưng.

Chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy lạp cổ đại không chỉ bàn đến bản nguyên thế giới, mà bước đầu đến vấn đề nhận thức, nhân sinh, đặt nền móng cho sự phát triển triết học Hy Lạp ở các thời kỳ sau. Trong lý luận nhận thức, các nhà duy vật chỉ ra mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, trong đó xem nhận thức lý tính như nhận thức “chân thực”, khác với nhận thức cảm tính như nhận thức “mờ tối” (Đêmôcrít), song khẳng định cơ sở hiện thực, vật chất của quá trình nhận thức, khác với cách hiểu của chủ nghĩa duy tâm Platôn. Các vấn đề đạo đức, thẩm mỹ, chính trị, xã hội cũng được đặt ra và giải quyết, dù không thành hệ thống quan điểm như ở các nhà triết học Platôn, Arixtốt.



. Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thực trạng của tri thức về tự nhiên, những mầm mống của khoa học chuyên biệt. Nhiều luận điểm của triết học duy vật, dù mang tính tự phát, bẩm sinh, đã đem đến cho con người những gợi mở tích cực, kể cả định hướng thế giới quan và phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Thực tế cho thấy chủ nghĩa duy vật tự phát góp phần tạo nên “vòng khâu” đầu tiên của lịch sử nhận thức.


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương