HƯỚng dẫn dạy và HỌc trong giáo dụC ĐẠi họC


Bài tập Hãy kể bốn hoạt động nào bạn đã thực hiện trong bộ môn của bạn trong vòng một năm qua mà mang thuộc tính của



tải về 1.92 Mb.
trang22/32
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích1.92 Mb.
#35831
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   32

Bài tập

Hãy kể bốn hoạt động nào bạn đã thực hiện trong bộ môn của bạn trong vòng một năm qua mà mang thuộc tính của:


  1. hoạt động hướng dẫn

  2. hoạt động tư vấn

Từ bảng liệt kê đó, hãy chỉ rõ những điểm nào phân biệt mỗi hành động với tư cách hướng dẫn hoặc với tư cách tư vấn.

Dich vụ tư vấn được cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ, có những trường hợp sự tư vấn được thực hiện trong phạm vi của mối quan hệ mà lúc đầu nó được tập trung vào những việc không mang tính tư vấn. Chẳng hạn, một sinh viên có thể coi thầy giáo của mình như một người hoàn toàn tin cậy để chia sẻ những nỗi lo lắng và băn khoăn. Trong trường hợp đó, cách tốt nhất là giảng viên xem chuyện gì đang xảy ra và sử dụng những kỹ năng tư vấn của mình một cách tự nhiên còn hơn là cố gắng xây dựng mối quan hệ tư vấn hẳn hoi. Khi đó người giảng viên đang thực hiện tư vấn nhưng lại không phải là một nhà tư vấn.

Các chương trình hướng dẫn và dịch vụ tư vấn của nó thường có quan hệ với hoàn cảnh và điều kiện môi trường. Hoạt động tư vấn thường được thấy dưới dạng giúp đỡ các cá nhân nhằm đạt được sự ý thức rõ ràng về nhân cách. Hoạt động tư vấn, cũng như toàn bộ chương trình hướng dẫn, nhấn mạnh vào việc lập kế hoạch hợp lý, cách giải quyết vấn đề, và giúp đương đầu với những áp lực của hoàn cảnh. Mối quan hệ tư vấn thường được đặc trưng bởi sự diễn đạt ít nhiều mang tính xúc cảm hơn so với mối quan hệ chữa bệnh. Các dịch vụ tư vấn thường thấy ở các trường phổ thông, các trường đại học, các cơ sở dịch vụ cộng đồng và các tổ chức mục sư, trong khi các dịch vụ chữa bệnh bằng liệu pháp tâm lý thường thấy ở các phòng khám, các bệnh viện và những cơ sở tư nhân. Những người nhận sự tư vấn giúp đỡ là những người “bình thường” chứ không phải là những người có biểu hiện không bình thường hoặc đặc biệt về cách thức điều chỉnh. Việc chữa bệnh bằng liệu pháp tâm lý áp dụng cho những người mắc chứng rối loạn về tâm lý. Sự tư vấn giúp cho người cơ bản là bình thường có thể loại bỏ tâm trạng thất vọng và những trở ngại cản trở sự phát triển, trong khi liệu pháp tâm lý cố gắng giải quyết bệnh tật hoặc tháo gỡ các mâu thuẫn.

Hoạt động tư vấn tập trung vào giúp đỡ cá nhân đương đầu với những nhiệm vụ phát triển như sự tự quyết, tính độc lập, v.v. Những lưu ý được đưa ra nhằm làm rõ những vốn quý, những kỹ năng, những điểm mạnh và những tiềm năng cá nhân của một người liên quan đến sự phát triển vai trò cá nhân. Phương thức tư vấn được dựa nhiều vào việc nhấn mạnh những tư liệu rõ ràng hiện có (tư liệu sẵn có trong nhận thức của cá nhân) trong khi liệu pháp chữa bệnh bằng tâm lý có xu hướng nhấn mạnh các tư liệu mang tính lịch sử và tượng trưng, khi tin tưởng mạnh vào sự tái kích hoạt và quan tâm đến các quá trình tiềm thức.


Một số quan điểm khác


1. Dịch vụ đánh giá được thiết lập để thu thập, phân tích và sử dụng các dữ liệu chủ quan và khách quan về tính cách, tâm lý và quan hệ xã hội của mỗi sinh viên để hiểu rõ hơn về họ đồng thời để giúp họ hiểu rõ hơn về bản thân họ.

2. Dịch vụ thông tin được thiết lập nhằm cung cấp cho sinh viên lượng kiến thức lớn về học tập, nghề nghiệp, và những cơ hội quan hệ cá nhân và xã hội để họ có thể lựa chọn thông tin và đưa ra quyết định tốt hơn trong bối cảnh xã hội ngày càng trở nên phức tạp.

3. Dịch vụ tư vấn được thiết lập nhằm tạo thuận lợi cho sinh viên tự hiểu mình và tự phát triển thông qua những mối quan hệ hai người hoặc nhóm nhỏ. Tiêu điểm chủ yếu của mối quan hệ đó hướng theo sự phát triển nhân cách và sự ra quyết định trên cơ sở tự hiểu mình và các hiểu biết về môi trường.

4. Dịch vụ lập kế hoạch, sắp xếp công việc và các việc tiếp theo được thiết lập nhằm thúc đẩy sự phát triển của sinh viên bằng cách giúp đỡ họ lựa chọn và tận dụng các cơ hội khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng như ở ngoài thị trường lao động.

Những mục tiêu của hoạt động tư vấn là rõ ràng. Trong trường hợp nhất định, các mục tiêu đó có thể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và môi trường, cũng như quá trình đào tạo. Mục đích cơ bản của hoạt động tư vấn bao gồm những điểm sau:


  • Nhằm giúp sinh viên tự hiểu về năng lực cá nhân, những mối quan tâm, động lực thúc đẩy và những tiềm năng của họ.

  • Nhằm giúp sinh viên có được sự hiểu biết sâu sắc căn nguyên và sự phát triển của những khó khăn về xúc cảm, từ đó làm tăng khả năng kiểm soát hợp lý những tình cảm và các hành động của riêng họ.

  • Nhằm thay đổi những cách ứng xử thích nghi không tốt.

  • Nhằm giúp sinh viên vận động theo hướng phát huy hết tiềm năng của họ hoặc giúp họ trong việc đạt được sự thống nhất các mâu thuẫn trước đó của chính họ.

  • Nhằm cung cấp cho sinh viên những kỹ năng, nhận thức và hiểu biết giúp họ có thể đương đầu với những thách thức của xã hội.

  • Nhằm giúp sinh viên có được một số hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực công việc, những thực tại trong đó và những mối liên hệ với học tập và chuyên môn của họ.

  • Nhằm giúp sinh viên phát triển kỹ năng ra quyết định.



Bài tập


Hãy xem lại thật kỹ phần trình bày quan điểm về ý nghĩa của hoạt động hướng dẫn và tư vấn. Hãy trao đổi với đồng nghiệp cùng khoa những quan điểm đó. Bạn thử đưa ra một định nghĩa cho mỗi thuật ngữ (hướng dẫn; tư vấn). Sau đó tìm xem những điểm tương đồng giữa các định nghĩa của bạn và các định nghĩa đã nêu ở trên.

Sự cần thiết của hướng dẫn và tư vấn


Trong Module 1, chúng ta thấy rằng các sinh viên vào đại học với đủ loại đặc tính. Ở module đó, chúng ta cũng đã nhận định chất lượng đầu ra của họ sẽ như thế nào. Giữa đầu vào và đầu ra, chúng ta có sự can thiệp bao gồm chương trình đào tạo, các hoạt động chính khoá và ngoại khoá. Hướng dẫn và tư vấn tham gia vào quá trình can thiệp này nhằm đạt mục tiêu của chúng ta là đào tạo ra những cử nhân có chất lượng tốt.

Bảng dưới đây nêu tóm tắt một số lí do chủ yếu giải thích tại sao chúng ta phải thực hiện hướng dẫn và tư vấn trong trường đại học.

Bảng 8.1. Sự cần thiết và trọng tâm của công tác hướng dẫn và tư vấn trong giáo dục đại học

Sự cần thiết

Trọng tâm của việc hướng dẫn và tư vấn

Nhằm nâng cao hiệu quả trong của hệ thống

Hướng dẫn học tập cho:

- các sinh viên kém từ đó giảm sự lưu ban, bỏ học và hao hụt số lượng

- các sinh viên trung bình để duy trì sự ổn định và tiến tới cải thiện

- các sinh viên khá để nâng cao sự tiến bộ từ mức này sang mức khác.



Nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ các hoạt động tách rời nhà trường với xã hội

- Khuyên bảo tại các câu lạc bộ sinh viên và câu lạc bộ xã hội để gắn kết mọi người lại với nhau

- Tư vấn và đối thoại về các vấn đề có thể nảy sinh sự xích mích và bất ổn của sinh viên

- Tư vấn về những vấn đề nhạy cảm


Nhằm nâng cao triển vọng nghề nghiệp của sinh viên

- Cố vấn việc làm và nghề nghiệp

- Mối liên hệ giữa các môn học và lĩnh vực công tác





Hướng dẫn và tư vấn trong giáo dục đại học

Aloyce Odeck


Những lĩnh vực hoạt động chính của hướng dẫn và tư vấn là:

Hướng dẫn và tư vấn về mặt giáo dục nhằm giúp đỡ sinh viên trong việc lựa chọn chương trình và cuộc sống trường học của họ.

Hướng dẫn nghề nghiệp nhằm giúp từng cá nhân lựa chọn và chuẩn bị cho một nghề phù hợp với sở thích và khả năng của người đó.

Hướng dẫn ứng xử xã hội nhằm giúp cho từng cá nhân biết cách ứng xử đúng trong quan hệ với các thành viên khác trong xã hội.



Hoạt động tư vấn có thể được hiểu như một mối quan hệ tương tác giữa hai hay nhiều người dưới nhiều hình thức. Nó có thể chỉ ra những vấn đề không mang tính giáo dục hoặc thậm chí là những việc không phải là tư vấn. Tư vấn phải được xem như một dịch vụ cung cấp cho những người bình thường nhằm giúp họ loại bỏ hoặc đối phó với tâm trạng thất vọng và lo lắng- những yếu tố cản trở sự phát triển của họ.

Hướng dẫn và tư vấn trong quá trình dạy học

Trong các trường đại học, hoạt động hướng dẫn và tư vấn cần tìm ra được những khó khăn của sinh viên. Những khó khăn đó bao hàm toàn cảnh bức tranh về cuộc sống sinh viên trong trường đại học. Một số khó khăn có thể có tác động tiêu cực đến quá trình dạy và học. Hoạt động tư vấn cần thăm dò xem đâu là những khó khăn của sinh viên rồi sau đó tiếp cận nó một cách hệ thống. Ví dụ khi chẩn đoán những khó khăn về mặt học tập, giảng viên phải tập trung vào các khía cạnh sau:

Những khó khăn nảy sinh trong quá trình truyền thụ kiến thức: những khó khăn này có thể liên quan đến nội dung, đến giảng viên hoặc phương pháp giảng bài.

Những khó khăn sau bài giảng: những khó khăn này có thể liên quan đến các hoạt động xã hội của sinh viên hoặc đến chính các phương tiện học tập.

Trong những trường hợp đó cần lấy thông tin từ đâu? Nguồn thông tin xác đáng về sinh viên có thể tìm thấy hoặc thu lượm thông qua các con đường sau:

Quan sát cá nhân:

Việc này đòi hỏi từng giảng viên phải sắc sảo để nhận thấy bất cứ biểu hiện thay đổi bất thường đối với sinh viên. Việc quan sát sẽ nảy ra mong muốn giúp đỡ thực sự và dồn hết tâm trí với sinh viên.



Những nguyện vong của sinh viên:

Sinh viên bao giờ cũng nói ra và bàn luận những việc biểu lộ các vấn đề mà họ phải đối mặt. Giảng viên cần phải sẵn sàng lưu ý đến những lời bàn luận của sinh viên về những việc đã xảy ra hoặc những dấu hiệu của những việc có thể sẽ xảy ra sau này.



Hồ sơ sinh viên và các tài liệu cập nhật:

Việc này thường mang lại những thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên giúp đỡ một sinh viên bỏ qua hoặc loại bỏ vấn đề của anh ta trong một thời gian dài.



Các lĩnh vực dịch vụ chính

Các lĩnh vực phục vụ chính của hoạt động hướng dẫn và tư vấn bao gồm:



Hướng dẫn và tư vấn về mặt giáo dục

Khía cạnh này của hoạt động tư vấn tự nó có liên quan đến việc giúp đỡ sinh viên trong lựa chọn chương trình và sinh hoạt trường học của họ. Các sinh viên cần được giúp đỡ khi lựa chọn môn học và lập kế hoạch học tập các môn học đó ở đại học. Tất của các giảng viên đều có thể được huy động vào việc này bất kể họ có được đào tạo chuyên về công tác tư vấn hay không.



Hướng dẫn và tư vấn về nghề nghiệp

Khía cạnh này của hoạt động tư vấn sẽ nhắm vào các vấn đề của sinh viên khi xem xét lựa chọn nghề nghiệp. Một lần nữa các thày giáo lại đóng vai trò tốt nhất để đưa ra lời khuyên xác đáng cho sinh viên bởi lẽ các thày giáo biết rõ những điểm mạnh và những điểm yếu về mặt học lực của sinh viên trong các lĩnh vực có thể liên quan tới những nghề nghiệp hoặc việc làm cụ thể. Việc các giảng viên biết được những sở thích và năng lực của hầu hết sinh viên sẽ làm cho họ trở thành những người tốt nhất giúp đỡ sinh viên của mình trong các lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp của họ.



Hướng dẫn và tư vấn về mặt ứng xử xã hội

Khía cạnh này của hoạt động tư vấn liên quan đến những vấn đề rất riêng tư của sinh viên. Những vấn đề đó bao gồm từ những nhu cầu về tài chính đến những mối quan hệ giữa người với người. Mặc dầu các giảng viên có thể giúp đỡ nhằm giảm bớt những áp lực này, vẫn cần có sự giúp đỡ mang tính chuyên gia hơn từ phía những người được đào tạo chuyên môn hoá. Việc các giảng viên có vị thế cao hơn trong quan hệ tương tác với sinh viên dẫn đến cho thấy họ có tác dụng lôi kéo quyết định thế nào trong ứng xử xã hội. Với vai trò là những hình mẫu đối với đa số sinh viên, điều quan trọng là các thày giáo phải nhận thức được vai trò quyết định của họ trong hoạt động hướng dẫn ứng xử xã hội.



Bài tập

1. Hãy bình luận quan điểm của Odeck: “Một lần nữa giảng viên lại được xem là người tốt nhất có thể cho sinh viên những lời khuyên xác đáng bởi vì họ biết rõ những điểm mạnh và những điểm yếu về mặt học lực của sinh viên trong các lĩnh vực có thể liên quan đến những nghề nghiệp, việc làm cụ thể. Việc các giảng viên hiểu được sở thích và năng lực của hầu hết các sinh viên của họ khiến họ trở thành người giúp đỡ tốt nhất cho các sinh viên trong các lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp của họ”.

2. Với tư cách là một giảng viên đại học bạn đã thoả mãn đến mức nào vai trò nói trên.

Các mặt hoạt động tư vấn


  1. Tư vấn về học tập

Khái niệm này được Truman Kelley đưa ra lần đầu tiên vào năm 1914 (Makinde,1988), tư vấn học tập là một quá trình thực hiện sự giúp đỡ đối với sinh viên có nhu cầu khi phải quyết định về vấn đề quan trọng trong học tập như việc lựa chọn các môn học và cách học, quyết định về sở thích và khả năng, lựa chọn trường đại học và trường trung học. Hoạt động tư vấn học tập sẽ nâng cao hiểu biết của sinh viên về các cơ hội học tập.

  1. Tư vấn về các vấn đề cá nhân và xã hội

Tư vấn riêng tư giải quyết nỗi lo lắng dễ xúc động và những vấn đề khó xử nảy sinh khi một cá nhân phải đấu tranh để đương đầu với các giai đoạn phát triển và các nhiệm vụ. Bất kỳ khía cạnh nào của sự phát triển cũng có thể biến thành một vấn đề điều chỉnh cá nhân, và đến một lúc nào đó chắc chắn ai cũng sẽ phải chạm trán với những khó khăn đặc biệt cùng sự thách thức thông thường của cuộc sống. Ví dụ:

  • Mối băn khoăn trước một quyết định nghề nghiệp

  • Sự tức giận kéo dài do một mâu thuẫn với người khác

  • Cảm thấy mất an toàn do trở nên già đi

  • Cảm giác chán chường với công việc

  • Mặc cảm quá mức khi mắc lỗi nặng

  • Thiếu quyết đoán và tự tin

  • Đau khổ vì mất người tình

  • Thất vọng và cô đơn sau khi bố mẹ ly dị nhau

  • Thi trượt

  • Không có khả năng kết bạn

  • Va chạm với giảng viên

3. Tư vấn nghề nghiệp

Hoạt động tư vấn nghề nghiệp được xem là những cuộc tiếp xúc riêng với những người được tư vấn, trong đó mục đích chính của người cố vấn là tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển nghề nghiệp của người được tư vấn. Định nghĩa và cách phân loại này bao hàm các tình huống tư vấn như:



  • Giúp sinh viên có được nhận thức về nhiều nghề nghiệp để có khả năng tìm hiểu kỹ hơn.

  • Giải thích sở thích nghề nghiệp cho sinh viên

  • Giúp thanh thiếu niên trong việc quyết định sẽ làm gì sau khi ra trường.

  • Giúp sinh viên đăng kí vào học ở một trường đại học hoặc trường kỹ thuật.

  • Thử phỏng vấn tuyển dụng đối với người cần tư vấn nhằm chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn thật.

Đặc điểm của những người tư vấn

Một giảng viên đại học với tư cách là một người tư vấn cần có những đặc điểm sau đây:



  • Tôn trọng sở thích và tin tưởng vào khả năng của sinh viên

  • Hiểu được nguyện vọng của sinh viên

  • Có thái độ thông cảm

  • Thân thiện

  • Có khiếu hài hước

  • Kiên trì

  • Khách quan

  • Chân thật

  • Tế nhị

  • Công bằng

  • Khoan dung

Bài tập

Bạn hãy chuẩn bị một phiếu kiểm tra có liệt kê các đặc điểm nêu trên (hoặc có thể nghĩ thêm những đặc điểm khác nữa) để đánh giá tiêu chuẩn của một giảng viên đại học làm công tác hướng dẫn và tư vấn. Căn cứ theo phiếu kiểm tra đó bạn hãy thử tự đánh giá mình. Bạn hãy phân phát phiếu kiểm tra đó cho các giảng viên khác của trường bạn. Bạn sẽ xếp loại bạn và những người tham gia như thế nào? Bằng cách nào bạn có thể cải thiện được vị trí xếp hạng của bạn?



Một số lời khuyên dành cho giảng viên đại học khi làm công tác tư vấn sinh viên

  • Giúp sinh viên các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề biết cách điều chỉnh cuộc sống.

  • Động viên sinh viên tham gia vào các hoạt động trong nhà trường nhằm phát huy hiệu lực của họ trong các hoạt động cá nhân và cộng đồng.

  • Thể hiện sự quan tâm và giúp đỡ sinh viên trong việc lập kế hoạch học tập, nghề nghiệp, phát triển mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

  • Giúp sinh viên trong việc tự đánh giá, tự hiểu biết và tự định hướng, tạo cho họ khả năng đưa ra các quyết định phù hợp với những mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đã định ở đại học.

  • Giúp sinh viên phát triển sức khoẻ cũng như thái độ và các giá trị tích cực.

  • Giúp sinh viên thu được sự hiểu biết tốt hơn về lĩnh vực công tác thông qua việc thu lượm kỹ năng và thái độ làm việc hoặc tham gia vào các chương trình liên quan đến nghề nghiệp.

  • Khuyến khích sinh viên lập kế hoạch và sử dụng tốt các hoạt động giải trí.

  • Giúp sinh viên hiểu được những điểm mạnh, điểm yếu, sở thích, các giá trị, tiềm năng và những hạn chế của bản thân.

Bài tập

1. Hãy nêu hai điểm khác nhau giữa hoạt động hướng dẫn và hoạt động tư vấn mà bạn tiến hành với tư cách là giảng viên đại học.

2. Hãy liệt kê bốn việc nào đấy mà sinh viên đề nghị bạn giúp đỡ và bốn việc mà họ đề nghị bạn tư vấn.

3. Bạn cho biết tại sao các sinh viên không muốn đến chỗ thày giáo của họ để được tư vấn?

4. Bạn phải làm thế nào để các sinh viên của bạn tin tưởng hoàn toàn vào bạn, giãi bày tâm sự cùng bạn và đến chỗ bạn xin được tư vấn?

Hoạt động hướng dẫn và tư vấn tại ba thời điểm trong giáo dục đại học

Bảng 8.2 chỉ ra các hoạt động hướng dẫn và tư vấn thường được tiến hành tại thời điểm vào, trong quá trình đào tạo đại học và thời điểm ra.



Bảng 8.2 Các hoạt động hướng dẫn và cố vấn tại ba thời điểm ở bậc giáo dục đại học




Các chức năng/Các hoạt động hướng dẫn

Các chức năng/Các hoạt động tư vấn

Hướng dẫn & cố vấn tại thời điểm vào đại học

 Định hướng

 Đăng kí

 Chọn lựa các môn học được tuỳ chọn

 Làm quen với những địa điểm và bộ phận quan trọng trong khu vực trường (thư viện, nhà ăn, trung tâm y tế, hội sinh viên, v.v).



 Hiểu bản thân

 Cố vấn riêng

 Hiểu biết những người khác bao gồm các giảng viên và quan chức khác trong trường

 Tư vấn theo nhóm về ba lĩnh vực: học tập, ứng xử và nghề nghiệp.



Hướng dẫn và tư vấn trong thời gian đào tạo

 Tạo thói quen học tập có hiệu quả cao

 Tăng cường tra cứu và sử dụng thư viện

 Thay đổi môn học

 Vạch kế hoạch duy trì sự chắc chắn về học tập, về xã hội, v.v

 Kiểm tra tư cách đạo đức và thi ứng xử.


 Mối liên hệ giữa lựa chọn chương trình/môn học và các kế hoạch tương lai

 Cố vấn học tập ở các dạng khác nhau

 ổn định các mối quan hệ giữa người và người

 Tuân thủ nội quy thi cử.



Hướng dẫn và tư vấn ở đầu ra

 Tìm kiếm một việc làm

 Viết đơn và thu thập thông tin về những vị trí chưa có người làm

 Những kỹ năng tham dự phỏng vấn

 Định hướng đầu ra

 Các bước và các giai đoạn chuyển đổi.


 Cuộc sống của người mới ra trường

 Những vấn đề thực tiễn của lĩnh vực công tác

 Những thất bại trong tìm kiếm việc làm

 Đương đầu với thị trường lao động

 Những thay đổi về lương.


Hiệu quả bên trong của trường đại học là mức độ thành công trong việc sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực sẵn có nhằm theo đuổi các mục tiêu của nhà trường. Một số chỉ tiêu nổi bật về hiệu quả bên trong là tỷ lệ những sinh viên được chuyển tiếp từ cấp độ này lên cấp độ khác, tỷ lệ lưu ban, tỷ lệ bỏ học giữa chừng và tỷ lệ tốt nghiệp. Ví dụ, một trường đại học có 90% số sinh viên năm thứ nhất đủ tiêu chuẩn chuyển lên năm thứ hai sẽ được xem là có hiệu quả bên trong cao hơn một trường khác có tỷ lệ trên là 85%.

Có một số yếu tố ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả bên trong. Một trong số đó là hoạt động hướng dẫn và tư vấn. Nếu như hiện tượng lưu ban và bỏ học là những chỉ tiêu đánh giá thì hoạt động hướng dẫn và tư vấn có vai trò cải thiện tình trạng trên. Thông qua hướng dẫn và tư vấn đúng, các sinh viên bỏ học có thể được tiếp nhận trở lại và họ sẽ có những thành tích để báo cáo.

Hoạt động hướng dẫn và tư vấn là cần thiết nhằm giảm bớt và hạn chế đến mức có thể các hoạt động phản xã hội trong nhà trường của chúng ta. Hiện đang có xu hướng gia tăng các hành động náo loạn, bạo lực và bãi khoá trong nhà trường. Nếu nhịp độ của các hoạt động đối thoại và tư vấn tăng lên thì chắc chắn các khủng hoảng trong trường học sẽ giảm xuống.

Hoạt động hướng dẫn và tư vấn cần thiết và có ích không chỉ đối với sinh viên mới vào mà cả với những sinh viên sắp tốt nghiệp bởi lẽ họ cần sự hướng dẫn về việc làm và nghề nghiệp. Làm thế nào để tôi biết được ở đâu đang khuyết một chỗ làm? Làm thế nào để tôi xin được việc làm? Tôi phải kiếm được cái gì ở vị trí công tác của mình? Đó là một vài câu hỏi trong hàng loạt câu hỏi mà sinh viên đặt ra. Các vấn đề sẽ được giải đáp đầy đủ nhất thông qua một chương trình hướng dẫn và tư vấn được lập kế hoạch cẩn thận.

Có những hoàn cảnh chung đồng thời cũng có những hoàn cảnh đặc thù riêng của trường bạn. Điều đó yêu cầu áp dụng các dịch vụ hướng dẫn và tư vấn khác nhau. Hãy lập một bảng như bảng 8.1 mang đặc điểm riêng của trường bạn. Trong bảng đó, hãy liệt kê những nhu cầu của trường mình và chỉ ra trọng tâm của dịch vụ hướng dẫn và tư vấn. Bạn hãy nghiên cứu bảng 8.2 và vạch ra các việc cần thực hiện trong mỗi giai đoạn học tập của sinh viên.

Hoạt động hướng dẫn và tư vấn về học tập, về xã hội và về nghề nghiệp

Có nhiều loại dịch vụ hướng dẫn và tư vấn khác nhau được triển khai đối với sinh viên đại học. Trọng tâm chú ý của chúng ta cần xác định xem những loại hình dịch vụ hướng dẫn và tư vấn không mang tính chuyên môn hoá nào mà giảng viên đại học có thể thực hiện để khuyến khích việc học tập có ý nghĩa. Một số chương trình có thể được tiến hành bao gồm hệ thống giảng viên cố vấn giàu kinh nghiệm, hệ thống trợ giáo, các chương trình hỗ trợ giảng dạy tiền đại học và chuyên môn hoá. Các nhu cầu trên có thể được thoả mãn bởi các trung tâm phát triển học thuật. Các đề xuất khác bao gồm việc thành lập các “Ban tư vấn” để đối phó với các vấn đề như ma tuý hoặc say rượu quá mức liên quan đến những kẻ bị rối loạn và lạm dụng tình dục. Cũng cần thăm dò khả năng cung cấp chỗ làm và các dịch vụ tư vấn hướng nghiệp. Việc xây dựng các phòng khám trong nhà trường để thoả mãn nhu cầu giúp đỡ về xã hội, y tế và pháp luật được xem như những hoạt động giúp đỡ sinh viên rất cần thiết. Lưu ý rằng sự nhận thức sẽ được nâng cao qua việc tổ chức kỷ niệm những ngày dành cho các sự kiện đặc biệt ví dụ như những ngày tìm hiểu về HIV/AIDS. Các trung tâm hồ trợ tài chính cũng góp phần phục vụ sinh viên, giúp họ vượt qua khó khăn do chí phí cho riêng họ ngày càng tăng. Bây giờ chúng ta cùng chuyển sự chú ý sang vấn đề hướng dẫn và tư vấn về học tập, về xã hội và mặt nghề nghiệp.

Hướng dẫn và tư vấn về mặt học tập chủ yếu xoay quanh các nhu cầu của sinh viên có liên quan đến chương trình đào tạo. Có thể kể ra một vài nhu cầu loại này như: đăng kí ngành học, cách thực hiện các nhiệm vụ và các đồ án được giao, phương pháp chuẩn bị cho kỳ thi, phương pháp học tập có hiệu quả, và biện pháp khắc phục những yếu kém trong một số môn học. Những điều đó tạo nên cốt lõi các công việc mà sinh viên thường phải thực hiện trong học đường. Chính vì vậy mà module này tập trung nhiều hơn vào phân loại hoạt động hướng dẫn và tư vấn.

Vì sinh viên thường xuyên có quan hệ tương tác với các bạn cùng học và những người có trách nhiệm khác trong trường nên một số hình thức hướng dẫn và tư vấn cần tạo cho sinh viên khả năng quan hệ xã hội tốt nhất. Sự hướng dẫn tại các câu lạc bộ xã hội để xích lại gần nhau, góp ý việc sử dụng thời gian rảnh rỗi, tư vấn việc sử dụng chất kích thích như rượu bia thuốc lá và hướng dẫn đốt bỏ những tài liệu có thể gây ra khủng hoảng trong trường học, v.v, là một vài hình thức hoạt động hướng dẫn và tư vấn về mặt xã hội. Trong phạm vi xác định rõ thể chế bên trong và bên ngoài, có thể nói rằng hoạt động hướng dẫn và tư vấn về mặt xã hội là quan trọng trong giáo dục đại học. Một trường đại học hoặc cao đẳng không có hồ sơ đầy đủ về tình hình mất trật tự và lạm dụng ma tuý của sinh viên thì trường đó hẳn là một trường có kế hoạch rất kém trong hoạt động hướng dẫn và tư vấn về mặt xã hội.

Loại hình thứ ba là tư vấn hướng nghiệp. Sự hướng nghiệp không chỉ cần thiết cho sinh viên sắp vào đại học. Ước tính có khoảng trên 10% số sinh viên đại học hoặc cao đẳng muốn theo học ngành học khác so với ngành họ đã ghi tên đăng ký. Sinh viên Vật lý thích chuyển sang Cơ khí. Sinh viên Hoá sinh muốn chuyển sang trường Y. Sinh viên năm cuối khoa Sử lại cảm thấy thích khoa Luật hơn. Trong lễ tốt nghiệp, nhiều người trong số đó cảm thấy thất vọng vì họ chợt nhận ra rằng sự chọn lựa nghề nghiệp chẳng khác gì giữa các ngành Vật lý, Hoá sinh và Lịch sử. Mục đích của hoạt động hướng dẫn và cố vấn về nghề nghiệp ở bậc đại học là đáp ứng những nhu cầu thực sự của sinh viên.

Bài tập

Trường hợp 1:

Tunde vừa ghi tên theo học ở một trường đại học. Mấy ngày đầu tiên anh ta cảm thấy rất vui. Anh ta cũng nhận thấy cuộc sống ở đại học hoàn toàn khác với cuộc sống ở trường phổ thông. Anh ta quyết định đăng kí ngành học của mình và tham gia tích cực vào hoạt động định hướng cho sinh viên mới. Thật chẳng may Tunde vẫn chưa tìm được chỗ ở trong ký túc xá. Đồng thời số tiền ít ỏi mà anh ta xin được từ bố mẹ nghèo đã phải chi tiêu vào những khoản tốn kém không ngờ. Ba ngày sau anh ta bị hai sinh viên ép buộc tham gia vào một câu lạc bộ đã bị Ban Giám hiệu cấm nhưng vẫn hoạt động ngầm. Chỉ hai tuần Tunde rất bối rối và bị rơi vào trạng thái rất khó xử.

Giả sử Tunde là một sinh viên của khoa bạn. Sau giờ giảng đầu tiên của bạn, anh ta đi đến chỗ bạn và xin bạn một cuộc hẹn tại văn phòng hội đồng, anh ta kể lại thử thách của mình.

1. Sau khi nghe câu chuyện của Tunde, bạn sẽ làm việc gì trong số những việc dưới đây và lí do vì sao?



  1. Chuyển anh ta lên Trưởng bộ môn/Trưởng khoa.

  2. Bảo anh ta đến gặp người tư vấn hướng dẫn của Trường.

  3. Giới thiệu anh ta đến các bộ phận chức năng của Trường là nơi có thể giải quyết được vấn đề đó.

  4. Cho anh ta lời khuyên về tất cả những vấn đề đó.

  5. Nói với anh ta rằng bạn không phải là một cố vấn đã được đào tạo và anh ta nên tìm kiếm sự giúp đỡ ở nơi khác.

2. Những khía cạnh nào trong vấn đề của Tunde phải được giải quyết qua:

  1. hoạt động tư vấn học tập?

  2. hoạt động tư vấn xã hội?

Trường hợp 2:

Ngozi là một nữ sinh viên năm cuối. Cô là một sinh viên giỏi nhất lớp. Trong hai học kì cuối cùng, do người bạn trai của mình mà cô đã quan tâm đến các hoạt động xã hội nhiều hơn các hoạt động học tập. Cô ta biện hộ cho sự thay đổi này bằng cách xác nhận rằng cô sẽ phải kết hôn với người yêu của mình ngay sau khi tốt nghiệp nhằm tránh cho anh ta bị các cô gái khác “nẫng” mất. Do ràng buộc với các hoạt động xã hội, cô bỏ giờ học và trốn tránh làm các bài tập. Điểm trung bình của cô ta tụt xuống rõ rệt. Sự sa sút về điểm trung bình được thông báo tại cuộc họp của Ban Giám hiệu. Với tư cách là Trưởng bộ môn bạn được phân công điều tra và tư vấn cho Ngozi về chuyện đó. Hãy mô tả chi tiết kế hoạch của bạn để giải quyết nhiệm vụ mà Ban Giám hiệu giao cho.



Nguyên tắc xử thế của hoạt động hướng dẫn và tư vấn

Một số quy tắc ứng xử mang tính nguyên tắc sẽ chỉ đạo phương pháp hoạt động hướng dẫn và tư vấn của chúng ta. Những qui tắc đó áp dụng cho cả người tư vấn (người cung cấp dịch vụ tư vấn) và người được tư vấn. Sự tôn trọng triệt để những nguyên tắc xử thế đó là yếu tố đảm bảo thành công của hoạt động này.



Sự tin cẩn là một trong những thái độ ứng xử mang tính nguyên tắc như thế. Cá tính của người được tư vấn, những vấn đề trao đổi và những lời khuyên đưa ra phải trong khuôn khổ tuyệt đối bí mật. Sẽ là không đúng chỗ nếu đem vấn đề mà sinh viên “A” nói cho bạn cùng những điều mà bạn khuyên anh ta/cô ta ra kể lại trong giờ giảng hoặc ở chỗ đông người. Trong trường hợp như vậy, ngoài chuyện làm cho sinh viên kia ngượng ngùng trước mọi người, hơn thế nữa sinh viên đó và nhiều sinh viên khác sẽ do dự đến gặp bạn lần sau để xin hướng dẫn và tư vấn.

Sự kiên nhẫn là một cách cư xử cần có ở những người làm công tác hướng dẫn và tư vấn. Bạn phải đủ kiên nhẫn để nghe người cần tư vấn trình bày. Bạn càng kiên nhẫn thì càng thu lượm được nhiều thông tin. Bằng sự kiên trì bạn sẽ có đầy đủ thông tin và từ đó rất thuận lợi để đưa ra lời khuyên và sự tư vấn tốt.

Yêu cầu đặt ra với hoạt động hướng dẫn và tư vấn là tính tự nguyện. Thật sai lầm nếu người cố vấn áp đặt sự giúp đỡ lên người cần tư vấn. Về phía người tư vấn, đó là đặc quyền lựa chọn áp dụng dịch vụ. Điều đó có vẻ giống với cách bán bảo hiểm. Bạn không bị ép buộc mua bảo hiểm. Tuy nhiên nếu bạn có được sự tin tưởng thì sau đó bạn sẽ mua bảo hiểm.



Tính khách quan cũng là một vấn đề ứng xử nữa. Chúng ta phải hoàn toàn khách quan khi đưa ra lời khuyên. Người cần tư vấn phải có lợi về cái nhìn khách quan đối với vấn đề sắp tới. Đưa ra quyết định cuối cùng là việc của người được tư vấn. Người tư vấn gợi ý các lựa chọn có thể, chỉ rõ những ưu điểm và những nhược điểm của các lựa chọn đó. Dựa vào những sự kiện đang diễn ra, người cần tư vấn được giúp đỡ thêm để ra một quyết định. Không được áp đặt quan điểm của người tư vấn cho người được tư vấn.

Phương pháp tư vấn có tính chất riêng tư

Hoạt động tư vấn bao gồm hai người có liên hệ tương tác với nhau. Mối liên hệ là rất bí mật và vì những người cần tư vấn thường tự bạch dưới hình thức kín đáo, nó khá riêng tư và những người khác không nhìn thấy. Dạng của mối liên hệ này thường giới hạn trong lĩnh vực lời nói, người tư vấn nói với người cần tư vấn và ngược lại. Những người cần tư vấn nói về bản thân họ, về những suy nghĩ, những tình cảm và hành động của họ. Họ miêu tả những sự việc trong cuộc sống của họ và cách họ giải quyết các vấn đề đó. Người tư vấn lắng nghe và trả lời những vấn đề mà người cần tư vấn nêu ra. Hai người này suy nghĩ, nói chuyện và chia sẻ những ý kiến và tình cảm của họ.

Mối quan hệ tương tác kéo dài tương đối lâu vì việc thay đổi cách ứng xử đòi hỏi phải có thời gian. Trong một cuộc nói chuyện ngắn với bạn bè, những suy nghĩ lệch lạc và mơ ước hão huyền thường được bảo lưu và chỉ thay đổi nhất thời. Trái lại, đúng như mục đích của nó, hoạt động tư vấn có sự thay đổi về cung cách ứng xử. Người ta cho rằng, thông qua quan hệ tư vấn người được tư vấn sẽ kéo dài thời gian xem xét lại sự lệch lạc của mình và thay đổi cách ứng xử.

Ba giai đoạn của một mô hình giúp đỡ

1. Thực trạng hiện tại

i). Giúp khách hàng kể những câu chuyện của họ. Trong lúc kể chuyện, khách hàng bộc lộ và nói về hoàn cảnh trục trặc của họ và những cơ hội bị bỏ lỡ. Một số khách hàng nói ra được trong khi đó số khác lại hầu như im lặng. Một số người rất miễn cưỡng nói ra những điều đã gây phiền muộn cho họ, trong khi số khác lại làm việc đó khá dễ dàng. Câu chuyện cần được kể lại toàn bộ hoặc từng mẩu từng mẩu ngắn ngay khi bắt đầu quá trình giúp đỡ. Muốn cho việc đó được suôn sẻ những người tư vấn cần thiết lập mối quan hệ có hiệu quả, với tư cách là những người giúp đỡ, với các khách hàng. Họ cần đánh giá chứ không phải phán xét khách hàng của họ. Họ phải biết đánh giá những cái đại loại như bản chất và tính gay cấn của vấn đề, những giới hạn của các vấn đề khác chưa được đề cập đến, ảnh hưởng của môi trường sống của khách hàng đến các vấn đề của họ, tài xoay xở mà khách hàng có được.

ii). Giúp khách hàng chuyển biến nhận thức và vượt qua những điểm mù, tiến đến xây dựng viễn cảnh mới về bản thân và hoàn cảnh có vấn đề của họ. Nhiều người không thành công trong việc đương đầu với những vấn đề trong cuộc sống hoặc thất bại trong việc tận dụng các cơ hội bởi lẽ họ không nhìn thấy họ trong viễn cảnh mới. Họ tự trói buộc mình theo kiểu tự đầu hàng về suy nghĩ và xử thế. Vận dụng khả năng sáng tạo và huy động trí tuệ tập thể trong hoạt động kiểm soát vấn đề và phát triển cơ hội là một trong những phương pháp mà người tư vấn có thể tiếp sức cho khách hàng. Cần không thừa nhận những điểm mù khác bằng cách nói với họ rằng cái mà họ đang làm là sai. Đó là cách giúp họ nhìn thấy được bản thân họ, thấy được những người khác và thế giới xung quanh họ theo một cách nhìn sáng tạo hơn.

iii). Giúp khách hàng tìm được lực đòn bẩy. Cần phải giúp đỡ khách hàng để họ xác định và xử lí các vấn đề, những quan ngại hoặc những cơ hội sẽ tạo ra sự thay đổi. Tác dụng đòn bẩy bao gồm ba hoạt động liên quan. Thứ nhất, cái giá phải trả của vấn đề phải được hiểu dưới dạng sự nỗ lực và thời gian chi phí cho nó. Thứ hai, nếu như trong khi kể chuyện, cùng một lúc khách hàng nói ra nhiều vấn đề hoặc giả vấn đề quá phức tạp thì cần phải xác định xem vấn đề nào cần ưu tiên giải quyết trước. Cuối cùng, các vấn đề cần được làm rõ trong phạm vi của kinh nghiệm, cách ứng xử và ảnh hưởng riêng (tình cảm, sự xúc cảm).



2. Viễn cảnh đề ra

i) Giúp khách hàng phát triển các khả năng cần thiết cho tương lai: Nếu tình trạng việc làm của khách hàng khó khăn và không thể chấp nhận thì khi đó anh ta/chị ta cần được giúp đỡ để họ hình dung, nhận thức hoặc mô tả được tình trạng việc làm mới. Điều này thay đổi những khả năng dễ chấp nhận hơn. Hãy đặt ra những câu hỏi mang tính định hướng tương lai như:

“Vấn đề này sẽ như thế nào nếu tôi kiểm soát nó tốt hơn?”

“Những thay đổi nào trong phong cách sống của tôi hiện nay sẽ có ý nghĩa?”

“Điều này sẽ như thế nào nếu nó được quan tâm hơn?”

Khách hàng cần được giúp đỡ để tìm được những mô hình thực tế và đúng đắn. Các phương pháp khác có thể đang được xem xét hoặc có thể đạt được bằng những kinh nghiệm mới. Tiếp cận và sử dụng khả năng tưởng tượng cũng chứng tỏ sự có ích đối với đa số khách hàng.

ii) Giúp khách hàng biến khả năng viễn cảnh thành kế hoạch khả thi. Nhiều khả năng viễn cảnh nếu được phát triển sẽ tạo thành những mục tiêu khả dĩ hoặc những kết quả mong muốn của quá trình giúp đỡ. Khách hàng được giúp đỡ để lựa chọn những khả năng có ý nghĩa nhất và biến chúng thành kế hoạch khả thi, tức là thành những mục tiêu cần đạt được.

iii) Giúp các khách hàng nhận biết các loại động lực giúp gắn kết bản thân họ với những kế hoạch mà họ vạch ra: một cách lí tưởng là các kế hoạch khách hàng đã chọn có sức lôi cuốn họ ngay từ vẻ bề ngoài của nó. Nếu không, cần phải tìm cho ra các động cơ ràng buộc. Các mục tiêu đặt ra phải được khách hàng thừa nhận và lôi cuốn họ. Sẽ tốt hơn nếu các mục tiêu đó được chọn trong số các lựa chọn. Cần tập trung vào những điều có tác dụng giảm khủng hoảng và đau khổ cho khách hàng. Cần tránh những mục tiêu không được thừa nhận. Người tư vấn có thể giúp khách hàng biết được các phương pháp khống chế sự nản lòng xuất hiện trên con đường đi tới mục đích. Các cuộc tiếp xúc cũng giúp khách hàng ràng buộc bản thân họ với những lựa chọn và họ cần được giúp đỡ để tìm ra chiến lược hành động nhằm đạt được mục đích của mình.



3. Chiến lược thực hiện

i). Giúp khách hàng vạch ra chiến lược thực hiện kế hoạch của họ. Khách hàng được giúp đỡ để tự hỏi chính mình các câu hỏi như “ Làm thế nào tôi có thể đến được nơi mình muốn đến?”. Những chiến lược được chọn trong số những khả năng thường có xu hướng đạt được hiệu quả hơn. Chiến lược là tập hợp các hoạt động được thiết kế nhằm đạt được mục đích. Nếu viễn cảnh đặt ra quá phức tạp thì lúc đó cần chia nó thành nhiều kết quả hoặc mục tiêu có quan hệ với nhau. Lúc đó mỗi mục tiêu phụ này lại có những chiến lược riêng của nó. Quá trình chia nhỏ và chế ngự đó có thể dẫn tới việc thực hiện được những việc tưởng như không thể. Một lí do khiến người ta không đạt được mục đích là họ không khảo sát tỉ mỉ những phương pháp khác nhau nhằm đạt được mục đích. Sự động não đóng vai trò to lớn bằng cách rút lại một quyết định, đưa ra càng nhiều ý kiến càng tốt, sử dụng một ý kiến trong khi loại bỏ các ý kiến khác hoặc bằng cách gạt bỏ những kìm hãm trong suy nghĩ và đưa ra nhiều ý kiến hơn nhờ làm rõ các vấn đề trong bảng liệt kê.

ii). Giúp khách hàng lựa chọn những chiến lược phù hợp nhất với môi trường và tiềm năng của họ. Chữ “nhất” ở đây có nghĩa từng chiến lược hay tổ hợp những chiến lược là phù hợp nhất với những nhu cầu, sở thích và tiềm năng của khách hàng và hầu như ít bị cản trở bởi những yếu tố môi trường. Các chiến lược đó phải rõ ràng, cụ thể, có liên quan đến mục tiêu mong muốn, có tính hiện thực, hiệu quả, của riêng khách hàng và được đảm bảo bằng những giá trị của người đó.

iii). Giúp khách hàng trình bày có hệ thống một kế hoạch bao gồm từng bước thực hiện từng mục tiêu của viễn cảnh đề ra. Bản kế hoạch này bao gồm những chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu, chia chúng thành những phần nhỏ, sắp xếp các đoạn nhỏ theo thứ tự và ấn định thời gian biểu để thực hiện mỗi phần nhỏ. Việc trình bày rõ ràng các kế hoạch sẽ giúp cho khách hàng tìm được nhiều phương pháp có ích hơn để đạt được mục đích. Các kế hoạch lập ra sẽ tạo cơ hội đánh giá tính hiện thực và tính phù hợp của các mục tiêu đề ra. Người tư vấn nói cho khách hàng một số điều về chiến lược của họ. Khách hàng cũng được giúp đỡ để phát hiện ra những khó khăn hoặc trở ngại đột xuất trong quá trình thực hiện các mục tiêu.



Bài tập

1. Hãy liệt kê bốn cách ứng xử đúng nguyên tắc của người tư vấn.

2. Hãy mô tả bốn cách cư xử không đúng nguyên tắc của người tư vấn, cho ví dụ trong mỗi trường hợp.

3. “Không phải tất cả các giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng hoặc kĩ thuật đều có thể thực hiện hoạt động hướng dẫn và tư vấn có hiệu quả”. Hãy bàn luận quan điểm trên.

4. Tại sao một số giảng viên lại đem những cuộc nói chuyện riêng trước đây giữa họ và một số sinh viên ra làm ví dụ trước lớp học? Bạn đánh giá thế nào về cách cư xử như thế?

Những giới hạn của giảng viên trong hoạt động hướng dẫn và cố vấn

Hầu hết các giảng viên đại học là những nhà tư vấn hướng dẫn không được đào tạo. Sự thiếu vắng các trường đào tạo chính thức đã hạn chế phạm vi hoạt động của những người làm công tác hướng dẫn và tư vấn. Có người còn nói thẳng ra rằng chỉ những người tư vấn hướng dẫn được đào tạo và có chất lượng mới có thể tham gia vào các dịch vụ hướng dẫn và tư vấn sinh viên. Có một số hoạt động mà người không qua đào tạo có thể thực hiện do kinh nghiệm cá nhân. Trong mọi hoàn cảnh, điều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không phải là “Nhà thông thái”. Chúng ta chỉ có thể thực hiện trong giới hạn hiểu biết và kinh nghiệm của chúng ta. Sau đó chúng ta phải tìm kiếm thêm nguồn nhân lực khác ở bên trong hay ngoài khu vực trường học để có thể bù đắp những khiếm khuyết.

Người giảng viên đại học nói chung có khả năng thực hiện các hoạt động tư vấn học tập tiêu biểu. Hầu hết họ có khả năng hướng dẫn và tư vấn sinh viên trong lĩnh vực chuyên môn và sự tư vấn mỗi khi sinh viên có khó khăn về mặt học tập trong những lĩnh vực này. Nếu đây là giới hạn của bạn thì hãy dừng lại ở phạm vi đó, đừng lan man sang lĩnh vực hướng dẫn xã hội mà bạn không quen. Có thể văn phòng tư vấn trường học sẽ khoả lấp chỗ trống đó.


Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 1.92 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương