HƯỚng dẫn dạy và HỌc trong giáo dụC ĐẠi họC


MODULE 4. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC Ở ĐẠI HỌC



tải về 1.92 Mb.
trang12/32
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích1.92 Mb.
#35831
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   32

MODULE 4. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC Ở ĐẠI HỌC


Giới thiệu và mục tiêu chung

Bài 1. Khái niệm về dạy và học

Bài 2. Các phương pháp dạy và học: Sử dụng, ưu điểm và nhược điểm

Bài 3. Một số chiến lược đẩy mạnh việc dạy và học

Hãy ngẫm nghĩ những điều sau đây khi bạn nghiên cứu module này

Điều 9. Những cách tiếp cận đổi mới giảng dục: tư duy logic và sáng tạo

b. Trường đại học cần phải đào tạo sinh viên trở thành những công dân có tri thức cao và có động cơ học tập mạnh mẽ với tư duy logic, phân tích các vấn đề xã hội, tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề đó, áp dụng chúng và chấp nhận trách nhiệm xã hội.

c. Thựchiện những mục đích này, có thể cần thiết phải sửa đổi CTĐT, sử dụng những phương pháp mới và thích hợp để có thể vượt ra ngoài môn học. Những phương pháp dạy học (didactic – phương pháp dạy học mang bản chất của quá trình dạy và học ND.) và sư phạm mới cần phải có khả năng tiếp cận và được khuyến khích để tạo thuận lợi cho việc nắm các kỹ năng, năng lực và khả năng giao tiếp, phân tích logic và sáng tạo, độc lập suy nghĩ và làm việc tập thể trong bối cảnh đa văn hoá, nơi mà tính sáng tạo liên quan đến việc kết hợp tri thức truyền thống hoặc tri thức địa phương với khoa học và công nghệ tiên tiến. Việc sửa đổi CTĐT phải cân nhắc đến những khía cạnh về giới tính và bối cảnh văn hoá, lịch sử, và xã hội cụ thể của từng quốc gia. Việc giảng dạy các chuẩn mực quyền con người và giảng dạy về nhu cầu của cộng đồng trên thế giới cần phải được phản ánh trong CTĐT của tất cả các ngành học, đặc biệt là các chương trình đào tạo người chủ và người quản lý doanh nghiệp. Đội ngũ giảng viên và các nhà nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc xác định chương trình đào tạo.

d. Phương pháp giảng dạy mới cũng chỉ ra những hình thức mới của phương tiện dạy - học. Những phương tiện này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới mà sẽ cải thiện không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo.

Giới thiệu và các mục đích tổng quát

Sinh viên đại học thường nói:

“Tôi đi nghe giảng”

“Tôi đi thực tập”

“Tôi đi thực tế”

“Tôi đi phụ đạo”

Rõ ràng, điều đó phản ánh phương pháp giảng dạy mà họ nhận được. Các bài giảng, thực hành, thực tế hiện trường và phụ đạo là phương pháp phổ biến về giảng dạy ở đại học. Những điểm mạnh và điểm yếu của các phương pháp này là gì? Liệu có một số cách mà giúp cho giảng viên đại học truyền thụ dễ dàng hơn kiến thức, kỹ năng và thái độ cho sinh viên hơn không? Liệu có những phương pháp và kỹ năng học tập tốt hơn mà sinh viên đại học có thể áp dụng để học tập có hiệu quả hơn không? Đó là những vấn đề chính đề cập trong module này.

Mục tiêu chung

Trong module này, chúng ta sẽ:

Mô tả các phương pháp dạy/học truyền thống và hiện đại được sử dụng trong các trường đại học; biết được khi nào thì sử dụng và các ưu nhược điểm của từng phương pháp.

Bài 1: Khái niệm về dạy và học


Mục đích cụ thể

Học xong này, bạn có khả năng phân biệt các khái niệm sau đây:

Dạy và học;

Môi trường dạy học;

Dạy học lấy giảng viên là trung tâm; và

Dạy học lấy người học là trung tâm.


Trong một giảng đường A có một ngàn hai trăm học viên. Có một dãy ghế; có quá nhiều tiếng ồn đến nỗi nguời ta không thể nghe được nhau nói. Một người lớn tuổi bước vàovà đi thẳng lên bảng. Chúng ta chưa rõ người đó là ai. Tất cả mọi người im lặng. Trời nóng và căn phòng tối mò do các cửa sổ để lọt ít ánh sáng mặt trời chiếu rọi. Bài đọc”chính tả” bắt đầu, ngưòi ta có lẽ nghĩ rằng đó là một trường trung học; tệ hơn nữa, là một trường tiểu học. Đây chắc hẳn phải là thầy giảng. Ông ta “bắn” liên tục không ngớt. Các sinh viên ngồi ở cuối lớp không thể nghe rõ. Một trong số họ phá lên cười. Chuỗi cười lây nhau lan truyền khắp mọi nơi, từ phía sau lên phía trước giảng đường. Thầy giáo yêu cầu giữ trật tự. Bài “đọc” lại tiếp tục. Chuỗi cười lại xuất hiện từ góc khác. Bị dồn vào bối rối, thầy giáo cố lập lại trật tự bằng các cách của mình. Ông ta quát tháo doạ nạt; sau đó ông rời lớp đúng theo cách mà ông đã đến.

Bạn có thể đoán được phần còn lại của năm học sẽ diễn ra như thế nào nếu như nó được khởi đầu như trường hợp trên đây?

Giảng đường B nhỏ hơn thoáng giảng hơn giảng đường A. Có hai nhóm tám trăm sinh viênở mối đầu phòng học. Không khí rất sôi nổi và rất dễ chịu. Vẻ mặt dường như nghiêm nghị nhưng rất khoan khoái. Có một quý ông trung tuổi. Có lẽ là thầy giáo. Ông nói ít, quan sát và thỉnh thoảng đặt câu hỏi.

Như vậy, có một vài kịch bản đang được “diễn” trong các trường đại học. Chúng ta cần ghi nhớ những cảnh tượng đó khi chúng ta bắt đầu định nghĩa một số khaí niệm cơ bản trong module này.



Dạy và học

Bất cứ một hệ thống giảng dục/dạy học nào cũng liên kết ba cực: kiến thức, sinh viênmôi trường học tập học.


Dạy học


Dạy học có thể được định nghĩa như là tập hợp các quá trình và các thủ tục được giảng viên sử dụng để tạo ra việc học tập. Obanya (1998) xem nó như là một quá trình đem lại những thay đổi tích cực trong học viên.

Môi trường học tập

Tình huống học tập hoặc môi trường học tập là tập hợp các nguồn có thể để thực hiện quá trình dạy/học. Những điều đó bao gồm nguồn con người (giảng viên, học viên, quản trị viên và nhân viên phục vụ); nguồn vật lý (ví dụ, giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, và xưởng); nguồn tư liệu (tài liệu giảng dạy, vật liệu nghe nhìn, và các cái khác); tài chính (các trợ cấp hoạt động, học bổng, trợ cấp huấn luyện và các cái khác); và khung cảnh chính trị và xã hội (nền cộng hoà đối ngược với chế độ độc tài, hoà bình đối ngược với chiến tranh).



Học tập

Việc học có thể được định nghĩa như là một quá trình nội tại xảy ra bên trong học viên. Nó thường xuyên biến đổi trong hành vi của con nguời (học viên). Nghiên cứu của các nhà tâm lý nhận thức (ví dụ, Brainard, 1997) chỉ ra rằng việc học xảy ra trong ba giai đoạn: giai đoạn động cơ học tập (motivation), giai doạn tiếp nhận và giai đoạn thực hiện.



Pha động cơ học tập

Sinh viên tiếp nhận các tác nhân kích thích học tập. Điều này cung cấp định hướng (khởi động) cho quá trình học. Họ lựa chọn các thông tin từ môi trường, các thông tin này có được là nhờ các cơ quan cảm giác.



Pha tiếp nhận

Các thông tin tiếp nhận được xử lý theo cách thức sau:

Chúng đi vào bộ nhớ tạm, từ đó chúng có thể được gọi ra và được sử dụng trong một thời gian rất ngắn. Nhưng năng lực của bộ nhớ tạm rất hạn chế. Thông tin đã tiếp nhận, được nhắc lại tiếp theo, sẽ lưu trữ trong bộ nhớ lâu dài.

Các vai trò của giảng viên và sinh viên

Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ giảng viên – học viên. Vai trò của giảng viên và sinh viên biến động qua mối quan hệ này. Một mặt, giảng viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến thức; sinh viên hoàn toàn phụ thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc làm. Họ là “người tiếp nhận” hơn là “ người học”. Mặt khác, giảng viên có thể đóng vai trò hướng dẫn, hoặc người tạo điều kiện thuận lợi. Sinh viên được giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập của mình.



Phương pháp dạy học

Prégent (1990) định nghĩa phương pháp dạy học như là một cách tổ chức riêng các hoạt động sư phạm được thực hiện phù hợp với một số quy tắc nào đó để đưa sinh viên đạt tới mục tiêu cụ thể.


Bài 2. Các phương pháp dạy và học: ứng dụng, ưu điểm và nhược điểm


Mục đích cụ thể

Học xong bài này bạn sẽ có khả năng:



  1. Phân biệt trong một loạt các phương pháp dạy và học những phương pháp thuận lợi cho việc học; và

  1. Khẳng định việc sử dụng, ưu điểm và các nhược điểm của từng phương pháp dạy và học

Cải thiện việc dạy và học ở đại học trong các môn khoa học tự nhiên

Sam ‘Tunde Bajah

Bên ngoài lề của sự can thiệp vào giáo dục ĐH, có một chương trình trung hạn về bồi dưỡng giảng viên các trường đại học ở miền Tây và miền Nam châu Phi mà tôi may mắn được tham gia, một cuốn sổ tay dành cho các giảng viên đại học với nhan đề Tự dạy bạn tốt nhất đã ra đời. Khi viết lời nói đầu cho cuốn sách, giáo sư Gichanga, phó hiệu trưởng danh dự, Trường đại học Nairobi đã nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét lại các trường đại học về khía cạnh phát triển nhân sự và khía cạnh dạy và học. Ông hướng chú ý vào những vấn đề sau:

Xuyên suốt châu Phi, các trường đại học đang trong tình trạng khủng hoảng. Các trường đại học đang quá tải do số lượng sinh viên gia tăng. Hiện nay, chỉ có một nhúm giảng viên được đào tạo chuyên môn sư phạm. Trên toàn thế giới, ngày nay đã nhận thấy rõ rằng một người muốn thành công trong dạy học thì phải được giáo dục. Đứng trước vấn đề nghiêm trọng như vậy, ngày càng nhận thấy hiển nhiên rằng chất lượng cán bộ là yếu tố cốt yếu trong việc đảm bảo cho các trường đại học giữ được nhiệm vụ truyền thống của mình là phát hiện, truyền đạt và bảo tồn tri thức (Gichaga, 1993).

Trong khi đấu tranh với các vấn đề dạy và học ở đại học, chúng ta không được quên rằng trong các môn khoa học tự nhiên, các khám phá đã đạt tới một tỷ lệ chưa từng thấy. Thế kỷ thứ 21 sẽ chứng kiến thế giới khoa học tự nhiên có bước nhảy vọt đó là việc dạy và việc học trong một kỷ nguyên của công nghệ thông tin, nhận thức cần phải được thay đổi.

Các biến đầu vào/chất lượng của việc dạy học

Việc dạy học thường được mô tả như là một nghề chuyên nghiệp mặc dù một số người, với những lý do xác đáng đã coi nó như là một nghề. Ở tất cả mọi trình độ dưới bậc đại học, các giảng viên không chỉ được được đào tạo (chuẩn bị) mà còn được cấp chứng chỉ dạy học. Một trình độ dạy học chuyên nghiệp là giấy thông hành có thể thăng tiến trong sự nghiệp. Nó là điều kiện tối thiểu nếu bạn muốn trở thành hiệu trưởng trường tiểu học hoặc hiệu trưởng trường phổ thông trung học. Tuy nhiên, ở trường đại học điều này sẽ thay đổi. Một điều được thừa nhận như một nguyên tắc trong các môn khoa học tự nhiên là đạt được trình độ tiến sĩ trong lĩnh vực chuyên môn đó là tất cả những cái mà một giảng viên đang khao khát cần có để kiếm được một vị trí giảng dạy trong bất cứ bộ môn nào trong lĩnh vự khoa học tự nhiên đó của trường đại học. Khi dạy học (nói một cách trung thực, a la Obanya), các giảng viên làm gì? dạy hay giảng (thuyết trình- lecture)? Đó là vấn đề thứ nhất để chúng ta thảo luận.



Câu hỏi 1

Giảng viên trường đại học liệu có yêu cầu phải có trình độ dạy học sau khi có bằng tiến sỹ không? Nếu có, thì loại đào tạo sau tiến sỹ nào sẽ được đưa ra?

Để dạy học có hiệu quả, không những giảng viên phải được chuẩn bị đầy đủ; cũng cần cung cấp cho giảng viên những phương tiện thích hợp. Một điều hiển nhiên xảy ra ở hầu hết các trường đại học châu Phi là các phương tiện dạy học còn rất thiếu thốn cả ở hai khía cạnh số lượng và tính đa dạng. Trong ngành khoa học tự nhiên, phạm vi hoạt động cho việc dạy học là phòng thí nghiệm. Thực tế chỉ ra rằng số lượng sinh viên đang tăng lên, trong khi cả số lượng và chất lượng của các phòng học thực nghiệm lại không đổi. Điều đó nảy sinh ra vấn đề thứ hai là tình trạng của các phòng thí nghiệm.



Câu hỏi 2

Số lượng và chất lượng tối ưu của các phòng học thực nghiệm cần cho giảng dạy các môn khoa học tự nhiên là gì?Liệu rằng cùng một thông số có được sử dụng cho các ngành vật lý/hoá học/sinh học được không?

Để xác định chất lượng dạy học trong trường đại học, yêu cầu không chỉ là hiểu rõ (đánh giá) điều gì đang xảy ra hiện nay mà còn khuyến cáo việc cải thiện chất lượng. Dù các giảng viên đại học có thích nó hay không, những lúc họ đứng trước lớp, họ đều bị sinh viên đánh giá.



Câu hỏi 3

Chúng ta cung cấp cho giảng viên đại học những chỉ dẫn nào để thực hiện việc dạy học có hiệu quả? Các yếu tố cần được cân nhắc để dạy tốt là gì?

Yếu tố đầu vào/ chất lượng học

Là một thành tố quan trọng của việc dạy học mà dẫn đến việc học tập có hiệu quả. Như đã quan sát ở nhiều trường đại học, các giảng viên cung cấp tri thức cho sinh viên thông qua bài giảng, kế hoạch hướng dẫn. Giảng viên đại học cung cấp một điều kiện khung cho học tập. Thực ra, điều đó giải thích tại sao nhiều giảng viên đại học vẫn kêu lên rằng họ được yêu cầu ‘đọc giảng’ chứ không phải ‘dạy’. Trách nhiệm học tập phó mặc cho sinh viên. Đối với học sinh ở trường phổ thông trung học đã từng được học các buổi học có thầy dạy, khi bước vào trường đại học lại gặp khung cảnh hoàn toàn khác. Một số sinh viên chưa sẵn sàng đón nhận thay đổi đột ngột đó [dạy dỗ -------đọc giảng]. Thống kê trong hầu hết các trường đại học chỉ ra rằng hồ sơ tuổi của sinh viên đang bị tụt xuống. Đa số thấy cực kỳ khó khăn để tự quản lý việc học tập. Vấn đề này có liên quan đến tuổi tác?

Trong môi trường trung học phổ thông, quy mô lớp là khá nhỏ so với ở trường đại học. Hơn thế nữa, trong trường đại học, sinh viên là người quản lý thời gian không giống như hồi còn ở trong trường phổ thông, ở đó thời gian học tập được lập kế hoạch do một người nào đó chứ không phải học sinh. Ở trường đại học, có sự thay đổi hơn nhiều về loại người mà họ được tiếp xúc. Thực ra, như môi trường tâm lý xã hội trong phòng thí nghiệm khoa học tự nhiên hoặc ở trường đại học có thể gây khó chịu cho sinh viên. Kết quả của tất cả những điều trên là: các sinh viên trẻ tuổi bị sốc trong môi trường đại học đã phải đối mặt với việc thực hiện nội dung học tập ở trình độ cao một cách kém cỏi. Các thống kê trong trường đại học ở Nigeria đã cho thấy có một tỷ lệ trượt khá cao ở cuối năm thứ nhất trong các môn khoa học tự nhiên.

Những gợi ý/ đề nghị

Việc thảo luận tiếp theo đã làm nẩy sinh nhiều câu hỏi hơn là đem lại câu trả lời. Điều đó nhằm để khuyến khích tranh luận sao cho đến cuối cùng, chúng ta sẽ tiếp cận đến những gợi ý/đề nghị thực tế. Dưới đây là 5 gợi ý giúp chúng ta bàn luận.



Xây dựng lòng tin vào giảng viên đại học

Người giảng viên được tin cậy là người giảng viên được chuẩn bị tốt cho việc làm và lúc nào cũng vậy các giảng viên được tin cậy là những giảng viên giỏi. Hệ thống giáo dục cần tạo ra những cơ hội để các giảng viên đó nâng cao năng lực nghề nghiệp của mình. Trong ngành khoa học tự nhiên, một giảng viên giỏi cần phải học thêm nhiều kỹ thuật khác nhau.



Thời gian chờ đợi đối với sinh viên

Hiện nay trong các trường đại học, thời gian học đang bị cắt xén; sinh viên đang chịu thức ép và lẫn lộn. Nhiều sinh viên không thể tự tin nói cho bạn biết học kỳ tới sẽ thực sự bắt đầu khi nào. Sinh viên cần có đủ thời gian để lập kế hoạch học tập cho mình.



Cung cấp đủ các nguồn để cải thiện việc dạy/học

Trong khoa học tự nhiên các phương tiện cần phải đủ để các cá nhân sử dụng. Bản chất của các môn học lập thành ngành khoa học tự nhiên đòi hỏi một chiến lược có sự tác động tương hỗ sinh viên– tư liệu. Các phòng thí nghiệm cần phải được trang bị tốt nếu chúng ta muốn nâng cao việc dạy và học các môn khoa học tự nhiên.



Cần để cho sinh viên đánh giá giảng viên

Hệ thống đại học đang được sử dụng để giảng viên đánh giá sinh viên thông qua các bài test. Có rất ít những trường hợp mà ở đó sinh viên được cung cấp cơ hội đánh giá những buổi học của giảng viên. Những thông tin nhận được từ sinh viên có tác dụng cải thiện việc dạy và học, và điều đó sẽ có tác dụng nhiều hơn thế đối với các môn học khoa học tự nhiên.



Dạy sinh viên biết cách học

Nếu chỉ có giáo trình và những ghi chép từ bài giảng sẽ là không đủ về nguồn thông tin trong một lĩnh vực rộng lớn của các môn khoa học tự nhiên. Vì chúng ta đang đào tạo các sinh viêncho thế kỷ 21, chúng ta cũng phải dạy họ cách truy cập thông tin mà phần lớn đang có sẵn trên các siêu xa lộ thông tin.



Kết luận

Tóm tắt việc bàn luận về nâng cao việc dạy và học các môn khoa học tự nhiên ở đại học, chúng ta kết luận những điều sau đây:



  1. Với giảng viên --- Tự dạy bạn tốt nhất

  1. Với sinh viên --- trong khoa học tự nhiên, bạn làm khoa học

Đến đây cho phép tôi chia sẻ những đóng góp của mình trong cuốn sách ‘Tự dạy bạn tốt nhất’. Những thêm thắt mà tôi dám mạo muội nhận sẽ có liên quan đến thảo luận của chúng ta về cải thiện việc dạy và học trong các môn khoa học tự nhiên.

Giảng viên xem như là một người có thẩm quyền

Có nhiều lĩnh vực mà bạn phải xem xét khi chuẩn bị bài giảng của mình.



Lĩnh vực xem xét, bạn tự hỏi mình

  1. Phân biệt chủ đề/các mục tiêu. Bạn muốn dạy cái gì?

  2. Cử toạ (người nghe). Bài giảng dành cho nhóm sinh viên nào?

  3. Địa điểm và thời hạn. Buổi giảng sẽ được tiến hành ở đâu và kéo dài bao lâu?

  4. Nội dung môn học. Phạm vi của bài giảng là gì? đến chừng mực nào, về chiều sâu và chiều rộng, bạn có cho rằng bạn có thể đi hết nội dung môn học trong thời gian quy định không?

  5. Tài liệu tham khảo. Liệu có vấn đề gì khiến bạn phải tra cứu trong sách, tạp chí hoặc trong sổ tay của bạn? Bạn có tin vào những sự thật mà bạn muốn sửa lại không?

  6. Giải quyết những vướng mắc, rắc rối. Có lĩnh vực nào trong chủ đề môn học mà bạn dự đoán là sinh viên sẽ có thể khó nắm vững ? Nếu có, bạn cần chuẩn bị các câu hỏi để tăng cường kiểm tra gấp đôi về lĩnh vực đó.

  7. Phương tiện giảng dạy, Bạn có muốn sử dụng những trợ giúp nào đó trong khi tiến hành bài giảng không? bạn đã kiểm tra xem chúng đã sẵn sàng và ở trong tình trạng làm việc tốt không?

Các lĩnh vực cần xem xét khi bạn chuẩn bị bài giảng

Nếu bạn đã xem xét cẩn thận 7 lĩnh vực sau, bạn sẽ có thể thoải mái trình bày bài giảng và các sinh viên cũng thoải mái như vậy khi nghe bạn.



Chuẩn bị đầy đủ

  1. Có giọng nói rõ ràng sinh động.

  1. Tôc độ nói hợp lý.

  1. Nói có sức mạnh truyền cảm.

  1. Có sự trầm bổng của giọng nói.

  1. Dùng cách nói hội thoại.

  1. Dùng ngôn ngữ và thuật ngữ dễ hiểu.

  1. Thể hiện trên nét mặt và các cử chỉ (ngôn ngữ phi lời nói).

  1. Đừng ngại mỉm cười.

  1. Bao quát đến các cá nhân và toàn lớp.

  1. Ăn mặc tề chỉnh và gọn gàng.

  1. Năng động và nhiệt tình.

Kỹ thuật giảng có thể mang lại sự khác nhau giữa bài giảng tốt và bài giảng tồi. Một lớp học với bất cứ cỡ nào, giọng nói của bạn cũng phải được nghe rõ ràng. Bạn là người biết rõ phải điều chỉnh giọng nói của bạn ra sao. Nếu như phòng học quá rộng, thì bạn phải sử dụng micro. Bạn nên sử dụng cách nói theo văn phong hội thoại và đừng dán mắt vào bài giảng. Hãy để mắt đến từng sinh viên, và bao quát toàn bộ lớp. Trong tình huống sinh viên có ít tài liệu họ phải chép nhiều hơn. Vì thế, khi bạn phải viết trên bảng, bạn phải chắc chắn rằng chữ viết của bạn dễ đọc. Thỉnh thoảng bạn có thể dùng đèn chiếu, trong trường hợp này, bạn nên chắc chắn rằng các chữ trên đèn chiếu được điều chỉnh rõ nét. Dành đủ thời gian để sinh viên ghi những điều chú ý trước khi chuyển slide. Với cương vị là một giảng viên, bạn phải phấn đấu đưa sinh viên tiến về phía trước bằng việc nâng cao thêm kiến thức của họ từ mặt bằng kiến thức ban đầu. Do vậy, trước khi bắt đầu giảng bài, bạn nên xác định trình độ ban đầu của sinh viên.

Trích từ:

Bajah, S.T. (1998, tháng 9). Cải thiện việc dạy và học ở đại học trong ngành khoa học tự nhiên. Được giới thiệu tại hội thảo UNESCO về dạy và học ở đại học. Trường đại học tổng hợp Ibadan, Nigeria.



Bài tập

Chuẩn bị bản liệt kê danh mục kiểm tra khi sử dụng các gợi ý trong bài đọc 4.1 về “giảng viên như là một chuyên gia”. Sử dụng bản kê này để đánh giá bài giảng gần nhất của bạn.



Tiêu chuân lựa chọn các phương pháp dạy và học

Phương pháp dạy và học có thể được phân loại theo có khả năng hoặc không có khả năng khuyến khích chủ động học:



  1. Các phương pháp dạy/học mà không khuyến khích tự học

Đây là các phương pháp lớp học lớn. Ví dụ, diễn giảng và chuyên đề.

  • Phương pháp dạy và học thiên về tự học

Đây là các phương pháp được áp dụng trong các nhóm nhỏ hay còn gọi là các sinh viên làm việc cá nhân.

Chúng ta tiến hành diễn tả một số trong những phương pháp này.

Phương pháp thuyết trình (độc giảng- lecture)

Trong phương pháp diễn thuyết, giảng viên liên tục truyền thông tin đến sinh viên. Phương pháp này được sử dụng cho lớp học đông người. Nó cho phép giảng viên sử dụng toàn bộ thời gian giảng. Phương pháp này có những hạn chế bởi vì nó không khuyến khích việc học. Một thực tế hiển nhiên là, sinh viên có nhiệm vụ chính là chăm chú nghe. Họ là các thính giả, ít chủ động; ít nghiền ngẫm, do bị phụ thuộc vào những điều giảng viên nói và giảng viên làm. Các ý kiến của sinh viên được coi là rất nhỏ. (Thực ra quan điểm trên có một số ý không thật đúng. ND)

Các phương pháp nhóm nhỏ

Các phương pháp nhóm nhỏ bao gồm:



  1. Sermina

  1. Thảo luận nhóm

  1. Bài tập tình huống (case study)

  1. Mô phỏng

  1. Hội thảo

  1. Phương pháp giải quyết vấn đề (PSM)

Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 1.92 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương