QUAN NIỆM THƠ
Gửi Trọng Miên
Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Trí, quan niệm rất khác thường, không giống Baudelaire lắm. Theo Baudelaire thì va lấy passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu Miên lấy tập Thơ Điên của Trí ra, Miên sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng và rất say sưa… Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc. Chỗ ấy hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi, vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire , va đã nói “ la pasion est chose naturelle”… nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy.
Tình cảm – hay cảm hứng (enthousiasme) – với dục tình (passion) khác nhau nhiều. Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không một chút gì bợn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường, ngoài điều răn của Đức Chúa Trời … Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ (éléments de la poésie) nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng chí tôn. Vì thế trừ hai loài trọng vọng là thiên thần và loài người ta, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: Loài thi sĩ. Loại này là những bông hoa quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi những quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho, rất tinh sạch (but de poésie). Bởi muốn cho loài thi sĩ làm trọn nhiệm vụ ở thế gian này, nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời, Người bắt chúng mua bằng giá máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình :
“Không rên siết là thơ vô nghĩa lý.”
Hay:
“Ta hiểu chi trong ánh gió nhiệm mầu
Những hạt lệ của trích tiên đày đọa.”
Cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thủy vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt. Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, ngỡ ngàng và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình. Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngọt ngào mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ (genèse d’un poème). Song le miệng lưỡi của thi sĩ ra vẫn còn nóng ran, vẫn còn khát khao thèm thuồng những vật lạ muôn đời (génie créateur, aimant toujours le nouveau). Của thế gian nếm mãi chưa bưa, chưa ớn, chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn đi tìm mãi, vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến cõi ước mơ hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi sĩ nhận thấy ở người con trai cũng như người con gái, đều có một tâm thuật nhỏ nhoi, tầm thường không hợp với tính tình thanh cao của thi sĩ. Vì thế thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết mọi sự - Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Thi sĩ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng, anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian này, nhưng thi sĩ là người khao khát vô tận, cứ nhất định muốn hưởng cái thơ trên cái thơ khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ. Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường. Với một sứ mệnh của Trời, thi sĩ phải biết đem tài năng ra ca ngợi Đấng Chí tôn và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng. Những thi sĩ nào không biết đem tài ứng dụng vào chỗ tốt đẹp thì sẽ bị Đức Chúa Trời lấy tài lại một cách nhãn tiền!
Miên ơi, như thế là Miên đã hiểu thế nào là quan niệm của Trí về thơ. Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt. Câu này ăn ý với câu: thơ là những tiêng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ cảnh chiêm bao, giải thích bằng hai mặt lạc quan và bi quan.
Trí đã tóm tắt những ý đã nói. Có điều này nữa, Trí khác hẳn với Baudelaire. Baudelaire nói: thơ văn không thể dung hòa với khoa học hay luân lý (hoặc tôn giáo cũng thế) và thơ văn không thể lấy chân lý làm chủ đích được, thơ chỉ là thơ (La poésie ne peut pas sous peine de mort ou de déchéance, s’assimiler à la science ou à la molale. Elle n’a pas la vérité pour objet, elle n’a qu’elle même). Baudelaire nói trái nghịch với lẽ tự nhiên. Sở dĩ thơ văn được phong phú, dồi dào, pháp triển hết cả anh hoa, huyền bí và vượt lên những tầng biên giới tân kỳ, mới lạ, cũng nhờ khoa học điểm chuyết cả. Còn luân lý là tiêu chuẩn cho văn thơ, không có nó thì thơ văn chẳng còn ra cái mùi mẫn gì nữa. Nếu để thơ trơ trọi một mình, thơ sẽ lạt lẽo vô duyên, không có phong vị gì nữa. Baudelaire thuộc về phái vô thần, nên không tin Chân lý, không nhận Chân lý làm tiêu chuẩn cho thơ văn. Còn Trí phải lấy Đức Chúa Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Văn thơ không phải bởi không mà có.
Quy Nhơn, juin, 1939
HỒN THANH KHIẾT
1 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin mang xuống cho tôi một triều thiên.
2 Tôi những muốn tắm gội trong Đại dương ánh sáng và tình yêu Thiên Chúa.
3 Vì nơi dương thế đã thể hiện những phép lạ khiến con người ngất ngây thán phục công trình huyền nhiệm của Đấng Tối Cao.
4 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, kìa các vị thấy chăng, hào quang đang rạng tỏ… màu tuyết trắng tinh…, hình hài trinh nguyên vô nhiễm…, hồn thiêng hiển hiện chốn dương trần… Thoạt nhìn, tưởng là hồn các thánh, là chất thơ, là tinh hoa kinh nguyện, đáng lẽ tỏa thành thanh hương, thanh khí, nhưng lại khiêm tốn nhận thân phận làm người!
5 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin vỗ tay mừng: Vì đấy là các Mẹ và các Chị dòng Phan Sinh, vào đời để thoa dịu những đau thương sầu khổ của người trần yếu đuối, người bệnh hoạn và cả những người phong cùi như chúng tôi.
6 Tôi muốn ca lên bài ca tán tụng, muốn uống thỏa thích những lời ngọt ngào khi các bà hát: Hosanna! Hosanna! (Hoan hô Chúa! Hoan hô Chúa!)
7 Tôi muốn đời đời cảm mộ vẻ trong trắng tinh tuyền và tươi mát ấy, hào quang ấy, chất thơ ấy, vì tất cả đấy là biểu hiệu của
HỒN THANH KHIẾT.
8 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin cùng nhau tung lên những hoa hồng, hoa súng, cất lên những khúc hát du dương, tấu lên những điệu nhạc thơm, và hãy tuôn đổ chan hòa các nhân đức, lòng dũng cảm và nguồn hạnh phúc giữa các nữ tì của Chúa ” 39 .
Phanxicô Trí
Deo gratias! (Tạ ơn Chúa!)
Đêm thứ tư, 24 tháng Mười 1940
(Bản Việt ngữ của Phạm Đình Khiêm)
NỘI DUNG
HÀN MẠC TỬ,
NGƯỜI KITÔ HỮU TRẺ
TRÊN LỐI VÀO NỘI TÂM 1
VÀI NÉT VỀ HÀN MẠC TỬ 5
1. ĐƯỜNG VÀO NỘI TÂM 9
2. NÉT ĐỒNG DẠNG GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM 13
1. KINH NGHIỆM CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ 13
3. TƯƠNG QUAN GIỮA NGHỆ THUẬT VÀ TÂM LINH 16
4. BƯỚC NHẢY QUYẾT ĐỊNH Ở VŨ MÔN 22
5. KINH NGHIỆM HÀN MẠC TỬ 25
6. CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG 34
7. CHIÊM NIỆM VÀ THƠ 40
8. CHẤT TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ 44
9. ĐƯỢC NÊN GIỐNG ĐỨC KITÔ 47
10. DẠO ĐẦU KHÚC LINH CA 52
11. RÚT BÀI HỌC CHO CHÍNH MÌNH 57
LỜI KẾT 72
TRÍCH TUYỂN
THƠ HÀN MẶC TỬ 74
THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA 75
ĐÂY THÔN VĨ DẠ 77
TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC 77
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ 78
ĐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN 79
ĐIỀM LẠ 80
NHỮNG GIỌT LỆ 80
NGUỒN THƠM 81
RA ĐỜI 82
SAY THƠ 83
CÔ LIÊU 85
CUỐI THU 87
BIỂN HỒN TA 88
XUÂN ĐẦU TIÊN 88
TRÍCH TUYỂN VĂN HÀN MẠC TỬ 90
LỜI TỰA ĐAU THƯƠNG 90
LỜI TỰA “XUÂN NHƯ Ý” 91
CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG 93
QUAN NIỆM THƠ 97
HỒN THANH KHIẾT 100
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |