Hà nội, 2009 Mục lục Chương Tổng quan về Thương mại điện tử 7


Thanh toán đối với thương mại điện tử tại Việt Nam



tải về 6.11 Mb.
trang16/56
Chuyển đổi dữ liệu01.05.2018
Kích6.11 Mb.
#37659
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   56

2.4. Thanh toán đối với thương mại điện tử tại Việt Nam

2.4.1. Yêu cầu của thương mại điện tử đối với hệ thống thanh toán


Luật Giao dịch điện tử chính thức có hiệu lực từ ngày 01/3/2006, cùng với các nghị định hướng dẫn dưới Luật đã tạo hành lang pháp lý cơ bản để thương mại điện tử đi vào cuộc sống. Trong đó, các nghị định hướng dẫn về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng và hoạt động tài chính đã góp phần định hình một hướng phát triển mới cho các lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và doanh nghiệp.

Theo Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2005 và 2006, hệ thống thanh toán điện tử yếu kém luôn được doanh nghiệp đánh giá là trở ngại lớn thứ hai đối với phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Các doanh nghiệp tỏ ra khá lúng túng khi muốn triển khai một quy trình ứng dụng thương mại điện tử trọn vẹn trong bối cảnh hệ thống thanh toán điện tử còn yếu. Đồng thời, người tiêu dùng cũng chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về các dịch vụ thanh toán điện tử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian qua.

Thực tiễn cho thấy thanh toán điện tử là một điều kiện cần của thương mại điện tử. Thương mại điện tử khó có thể phát huy được hết ưu điểm của mình khi chưa có hệ thống thanh toán điện tử với năng lực đủ mạnh. Tốc độ phát triển của thương mại điện tử Việt Nam trong những năm qua đang đặt ra nhu cầu về một hệ thống thanh toán điện tử hiện đại để hỗ trợ doanh nghiệp và người tiêu dùng tận dụng tối đa lợi ích của phương thức kinh doanh mới này.

Hơn thế nữa, thanh toán điện tử không chỉ là nhân tố thúc đẩy thương mại điện tử mà còn đóng một vai trò quan trọng trong công tác hiện đại hoá hệ thống thanh toán, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ trong ngành ngân hàng, tài chính tại Việt Nam. Năm 2007 là năm thứ hai trong lộ trình thực hiện Dự án “Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán” của Ngân hàng Nhà nước và cũng là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Do vậy, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng trở nên cấp bách để các ngân hàng Việt Nam có thể đứng vững trước những thử thách của quá trình hội nhập.


2.4.2. Thực trạng của hoạt động thanh toán

2.4.2.1. Lượng tiền mặt lưu thông còn cao


Thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong các giao dịch hàng ngày của người dân. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và người tiêu dùng cá nhân. Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước về thực trạng thanh toán năm 2003 tại 750 doanh nghiệp trên cả nước (trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm hơn 80%), đối với những doanh nghiệp lớn có trên 500 công nhân, khoảng 63% số giao dịch của doanh nghiệp được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này chỉ còn 47%. Đối với hộ kinh doanh, 86,2% hộ chi trả hàng hoá bằng tiền mặt. Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch của doanh nghiệp, đặc biệt là giao dịch với người tiêu dùng còn ở mức rất cao.

Tuy nhiên, khoảng hai năm trở lại đây, hoạt động thanh toán trong ngân hàng đã có những dấu hiệu khả quan với sự ra đời của nhiều phương thức thanh toán mới. Những dịch vụ này đã phần nào giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020, tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần. Năm 1997 tỷ trọng này là 32,2%, nhưng đến năm 2001, con số này giảm xuống còn 23,7%, năm 2004 là 20,3%, năm 2005 là 19% và đến đầu tháng 3 năm 2006 còn 18,5%.

Tuy tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán trong các năm vừa qua có giảm nhưng vẫn còn ở mức khá cao, trung bình chiếm khoảng 20% tổng giá trị thanh toán trên các phương tiện nói chung. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, việc thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đã có biến chuyển song Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng vẫn cần nỗ lực hơn nữa trong việc hạn chế lưu lượng tiền mặt trong giao dịch hàng ngày, tiến tới sử dụng hệ thống thanh toán điện tử toàn diện.

2.4.2.2. Số tài khoản cá nhân ngày càng tăng


Trước đây chỉ doanh nghiệp và người có thu nhập cao sử dụng các dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Đại đa số người lao động làm việc tại doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc khu vực chính phủ đều chưa tiếp cận với phương thức thanh toán này. Thời gian thực hiện lâu và chi phí cao đã khiến các dịch vụ thanh toán ngân hàng không thể phổ cập trong hoạt động giao dịch hàng ngày của người tiêu dùng. Tuy nhiên, môi trường pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đang được cải thiện với xu hướng tạo điều kiện cho các phương thức thanh toán điện tử ra đời và phát triển. Thanh toán điện tử liên ngân hàng đã đạt được những hiệu quả ban đầu. Đặc biệt, các ngân hàng thương mại đã đầu tư thích đáng để phát triển cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá tiện ích nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Nhờ có cải tiến trong kỹ thuật, số lượng giao dịch thanh toán được xử lý điện tử chiếm tỷ trọng ngày một cao, giúp giảm bớt chi phí và tiết kiệm thời gian. Với nỗ lực không nhỏ từ phía ngân hàng cũng như cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động thanh toán đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Việc gia tăng số tài khoản cá nhân là một trong những hệ quả khá rõ ràng.

Từ năm 2000 đến nay, số tài khoản cá nhân trong toàn hệ thống ngân hàng đã có bước phát triển nhảy vọt. Tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm vào khoảng 150% đối với số tài khoản cá nhân và 120% đối với số dư tài khoản. Số lượng tài khoản tăng nhanh là một dấu hiệu đáng mừng cho ngành ngân hàng trong việc phát triển các dịch vụ thanh toán. Đây cũng là giải pháp hữu hiệu để giảm lượng tiền mặt sử dụng trong thanh toán thời gian tới. Do đó, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán điện tử trong bối cảnh lượng tài khoản cá nhân ngày càng nhiều.


2.4.2.3. Mở rộng đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán


Thị trường dịch vụ thanh toán đang trở nên cạnh tranh hơn khi đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ không chỉ giới hạn ở ngân hàng mà được mở rộng sang các tổ chức khác như Công ty Dịch vụ tiết kiệm bưu điện, các công ty cung cấp giải pháp thanh toán, v.v... Vì vậy, cạnh tranh không chỉ diễn ra trong ngành ngân hàng mà còn giữa ngân hàng với các tổ chức làm thanh toán khác. Mức độ cạnh tranh ngày một tăng khiến các đơn vị phải nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như giới thiệu thêm nhiều dịch vụ mới, nhờ đó nhu cầu đa dạng của khách hàng sẽ ngày càng được đáp ứng tốt hơn.

Xu hướng liên doanh, liên kết giữa các ngân hàng đã bắt đầu hình thành. Lợi ích của xu hướng này là giúp các ngân hàng thương mại nhỏ vượt qua được những hạn chế về vốn đầu tư cho trang thiết bị công nghệ phục vụ việc hiện đại hoá hệ thống thanh toán, đặc biệt là hình thức thanh toán thẻ. Chính nhờ mối liên kết giữa các ngân hàng riêng lẻ mà tính tiện ích trong thanh toán được cải thiện, tạo đà cho thanh toán điện tử phát triển tại Việt Nam.

Như vậy, hoạt động thanh toán thời gian qua đã có những bước tiến khá rõ nét. Việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch vẫn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần. Các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán buộc phải tự cải tiến dưới sức ép của môi trường cạnh tranh cũng như yêu cầu của khách hàng ngày càng cao cả về chất và lượng. Thanh toán điện tử được coi là chìa khoá của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời đại công nghệ và hội nhập như hiện nay.

2.4.3. Tiền đề của hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam

2.4.3.1. Sự phát triển của thị trường thanh toán thẻ


Thanh toán thẻ được coi là giải pháp bước đầu cho hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam. Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tầng cở sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002. Trong đó, công nghệ cho thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai. Sau 5 năm, các ngân hàng đã hình thành một mạng lưới máy giao dịch tự động ATM và đơn vị chấp nhận thẻ khá rộng. Số lượng thẻ phát hành năm 2006 chỉ đạt khoảng 4 triệu thẻ thì đến năm 2007 con số này đã tăng gấp đôi (hơn 8 triệu thẻ). Số lượng máy ATM cũng tăng mạnh từ 2.500 máy năm 2006 lên hơn 4.000 máy năm 2007.

Theo Quyết định số 32/2007/QĐ-NHNN ngày 03/7/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng có thể phát hành một loại thẻ thanh toán mới, đó là thẻ trả trước vô danh với hạn mức 5 triệu đồng. Hình thức thẻ này ra đời với mục tiêu giảm lượng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, hai lợi ích cơ bản bao gồm tiết kiệm thời gian và chủ động trong chi tiêu cũng là ưu điểm của loại hình thẻ thanh toán nói trên. Thanh toán bằng thẻ trả trước vô danh đóng vai trò như một phương thức bổ sung cho hoạt động thanh toán điện tử mà hệ thống ngân hàng đang chú trọng đẩy mạnh.


2.4.3.2. Liên minh thẻ ngân hàng


Trong bối cảnh số lượng tài khoản cá nhân ngày một tăng, mạng lưới thanh toán, loại hình thẻ ngày một mở rộng theo nhu cầu của người tiêu dùng, vấn đề khó khăn chính là việc liên kết các hệ thống thanh toán của nhiều ngân hàng khác nhau nhằm cắt giảm chi phí và tăng tính tiện dụng cho khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành nói chung.

Hệ thống thanh toán thẻ của Việt Nam hiện đang tồn tại 4 liên minh thẻ. Đó là liên minh thẻ Ngân hàng VCB, liên minh thẻ Việt Nam Bankcard (VNBC) của Ngân hàng Đông Á, liên minh thẻ Banknetvn gồm 3 ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng cổ phần, và liên minh thẻ ANZ/ Sacombank. Trên lý thuyết, thẻ của mỗi ngân hàng thành viên có thể thực hiện giao dịch trên máy ATM của các ngân hàng khác trong liên minh. Tuy nhiên, hiện nay từng ngân hàng thành viên lại phát triển các dịch vụ khác nhau, dẫn đến việc khách hàng của ngân hàng này vẫn chưa thể thực hiện thao tác chuyển khoản trên ATM của những ngân hàng khác trong cùng liên minh.

Nhóm liên minh thẻ do ngân hàng VCB khởi xướng đã thực hiện thành công việc kết nối thanh toán thẻ giữa 17 ngân hàng thành viên. Đây là nỗ lực rất lớn của những ngân hàng nói trên trong việc nâng cao giá trị gia tăng cho khách hàng thông qua tạo lập một mạng lưới thanh toán trên máy ATM.

Ngày 21/4/2007, hệ thống thanh toán thẻ Việt Nam được đánh dấu bằng việc kết nối thành công 3 ngân hàng bao gồm Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Incombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SaigonBank) thông qua dịch vụ kết nối chuyển mạch của Banknetvn. Theo Banknetvn, hệ thống kết nối của Banknetvn giúp chủ thẻ có thể thực hiện giao dịch tại gần 25 nghìn máy ATM trong hệ thống Banknetvn, chiếm khoảng 60% tổng số ATM trên toàn quốc. Qua hai tháng vận hành chính thức, trên 83 ngàn giao dịch với tổng giá trị trên 23 tỷ đồng đã thực hiện qua hệ thống chuyển mạch 4 ngân hàng trên của Banknetvn và có xu hướng tăng với tốc độ khá nhanh. Như vậy, từ khi chính thức vận hành đến hết tháng 4/2007 đã có khoảng 450 giao dịch thực hiện qua hệ thống. Con số này tăng gần gấp 3 lần trong tháng 5/2007 và tăng gần gấp 5 lần trong tháng 6/2007. Dự kiến cuối năm số lượng giao dịch sẽ tăng lên khoảng 4.000 - 4.500 giao dịch/ngày, xấp xỉ gấp 10 lần so với giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động.

Dự kiến, trong tương lai gần, 4 ngân hàng tiếp theo là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) cũng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ liên ngân hàng thông qua hệ thống Banknetvn.

Như vậy, cả 4 ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam gồm Ngân hàng Agribank, Ngân hàng Incombank, Ngân hàng VCB và Ngân hàng BIDV đều đã tìm cho mình một liên minh thanh toán thẻ để liên kết. Thực tế này chắc chắn sẽ giúp hệ thống thanh toán thẻ tại Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn với chi phí thấp, mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng và ngân hàng.


2.4.4. Định hướng của Nhà nước về phát triển thanh toán điện tử


Ngày 29 tháng 12 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam. Mục tiêu của Đề án là hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, đồng thời thúc đẩy phát triển các phương thức thanh toán điện tử trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu này, Đề án vạch ra 6 nhóm đề án nhánh như sau:

Nhóm đề án 1: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế theo hướng tạo lập môi trường công bằng, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, ứng dụng công nghệ trong thanh toán.

Nhóm đề án 2: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công. Giải pháp này bao gồm quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt và trả lương, trợ cấp ưu đãi xã hội qua tài khoản.

Nhóm đề án 3: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tập trung xây dựng và ứng dụng thanh toán điện tử, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử.

Nhóm đề án 4: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư thông qua phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, tăng lượng tài khoản cá nhân, mở rộng mạng lưới máy ATM và đơn vị chấp nhận thẻ.

Nhóm đề án 5: Phát triển hệ thống thanh toán thông qua việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng; xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động và trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.

Nhóm đề án 6: Các giải pháp hỗ trợ để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu 6 đề án nhánh nêu trên được triển khai thành công, tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán có thể giảm xuống không quá 18% vào năm 2010 và 15% vào năm 2020. Đồng thời, số tài khoản cá nhân sử dụng cho thanh toán cũng tăng lên 20 triệu vào năm 2010 và 45 triệu vào năm 2020, số thẻ phát hành đạt mức 15 triệu đến cuối năm 2010 và 30 triệu cho tới năm 2020.81 Ngân hàng Nhà nước hiện đang tích cực triển khai Đề án xây dựng Trung tâm Chuyển mạch thẻ thống nhất. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chỉ đạo cụ thể để các liên minh tăng cường hợp tác với nhau, cùng chia sẻ cơ sở hạ tầng thanh toán thẻ, qua đó chi phí sẽ giảm và tạo thuận lợi hơn cho các chủ thẻ trong giao dịch cá nhân.

* Lợi ích của việc trả lương qua tài khoản

Đánh giá của các chuyên gia ngành tài chính, ngân hàng cho rằng việc trả lương qua tài khoản thực sự mang lại những hiệu quả tương tác “3 trong 1” vô cùng lớn. Đó như một bước đệm quan trọng cho công cuộc phòng, chống tham nhũng lãng phí của Chính phủ và tiến tới triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010. Quyết định phê duyệt Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt của Thủ tướng Chính phủ sẽ tạo đà cho thanh toán điện tử phát triển bền vững và trở thành một hình thức thanh toán phổ biến đối với mọi đối tượng từ doanh nghiệp đến cá nhân người tiêu dùng.


2.4.5. Ngân hàng với thanh toán điện tử

2.4.5.1. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Internet Banking)

2.4.5.1.1. Tình hình phát triển chung


(i) Số lượng

Dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một khái niệm bắt đầu phổ biến trong vài năm gần đây khi số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ này tăng mạnh từ năm 2004.



Tốc độ phát triển của dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một minh chứng rõ ràng cho những thay đổi trong hoạt động thanh toán từ phía ngân hàng nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Sự chuyển biến này hoàn toàn phù hợp với tốc độ và xu thế phát triển của thương mại điện tử Việt Nam. Khi thương mại điện tử ngày càng phổ biến trong xã hội, thanh toán điện tử sẽ là một nhu cầu tất yếu để thúc đẩy các bước phát triển tiếp theo.

Bảng 4.1. Danh sách các ngân hàng triển khai Internet Banking

STT

Ngân hàng

Tiện ích cung cấp thông tin

Tiện ích thanh toán







Thông tin TK

In sao kê

Thông tin ngân hàng

Chuyển khoản

Thanh toán hóa đơn

Dịch vụ khác*



NH Ngoại Thương VN

x

x

x

x

x

x



NH Quốc tế VIBank

x

x

x







x



NH Nhà Hà Nội

x




x












NH Công Thương VN

x

x

x

x









NH Phương Nam

x

x















NH Hàng Hải

x

x

x












NH Quân đội

x

x

x












NH Kỹ Thương

x

x

x

x

x

x



NH Sài Gòn – Hà Nội

x

x

x












NH TMCP Sài Gòn

x

x

x












NH Đông Á

x

x

x

x

x

x



NH Sài Gòn Công Thương

x




x












NH Citi Bank

x

x

x

x




x



NH ANZ

x







x




x



NH Indovina

x

x

x

x




x



NH Xuất nhập khẩu

x

x

x




x






NH ACB

x

x

x

x

x

x



NH An Bình

x




x







x

* Dịch vụ khác bao gồm quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán, mở, sửa L/C, chuyển tiền ra nước ngoài, yêu cầu giải ngân hoặc trả nợ, đăng ký sử dụng các sản phẩm của ngân hàng, thanh toán qua website.

Nguồn: Khảo sát của Vụ thương mại điện tử, Bộ Công Thương tháng 12/2007

Ngân hàng hiện được coi là một trong những lĩnh vực dịch vụ phát triển nhanh, với sự tham gia năng động của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cùng với tiến bộ của công nghệ thông tin, các ngân hàng khó có thể bỏ qua các ứng dụng công nghệ trong việc nâng cấp dịch vụ của mình. Điều này được minh chứng rõ nét qua tốc độ gia tăng số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến trong thời gian qua.

(ii) Tính năng

Kết quả khảo sát các website cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho thấy nhiều điểm tương đồng giữa các ngân hàng. Các website đều có cấu trúc hợp lý, đơn giản và hướng dẫn cụ thể để khách hàng dễ dàng truy cập và thao tác thực hiện yêu cầu của mình.

Một dịch vụ ngân hàng trực tuyến hoàn chỉnh cần có những tính năng thông tin và tính năng thanh toán hoá đơn, cụ thể như sau:

Tra cứu số dư tài khoản;

Tra cứu thông tin ngân hàng;

Sao kê tài khoản hàng tháng;

Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể tận dụng kênh giao dịch trực tuyến để cung cấp thêm một số dịch vụ chuyên ngành khác như chuyển đổi ngoại tệ, đăng ký mở thư bảo đảm tín dụng (L/C), chuyển tiền ra nước ngoài, đăng ký sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng khác, v.v…Cho tới cuối năm 2007, hầu hết các ngân hàng vẫn chưa thể triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến toàn diện.

Tuy nhiên, những tính năng cơ bản và mang lại lợi ích ban đầu cho người tiêu dùng đã được đưa vào hoạt động tại tất cả 18 ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong đó, tra cứu số dư tài khoản cá nhân và thông tin sao kê hàng tháng là tính năng phổ biến nhất. Tính năng này giúp khách hàng ngồi tại chỗ với máy tính nối mạng có thể kiểm tra số dư tài khoản và nhật ký chi tiêu của mình mỗi tháng mà không cần phải đến ngân hàng hoặc chờ nhận thông tin từ ngân hàng gửi đến qua đường bưu điện.

Tính năng cơ bản thứ hai vẫn thuộc nhóm cung cấp thông tin. Những thông tin có tính thay đổi thường xuyên như tỷ lệ lãi suất tiết kiệm, tỷ giá ngoại tệ, vàng, v.v... cũng được cung cấp cho khách hàng một cách nhanh và chính xác thông qua dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Một tính năng khác được nhiều ngân hàng đưa vào hoạt động là cho phép chuyển khoản trong cùng hệ thống ngân hàng. Thay bằng việc phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng trong một khoảng thời gian làm việc nhất định, người tiêu dùng có thể đặt lệnh chuyển khoản vào bất cứ lúc nào từ một máy tính nối mạng. Tính năng này giúp khách hàng tiết kiệm và chủ động được thời gian giao dịch. Hiện mới chỉ có 4 ngân hàng là Kỹ thương, Indovina, Á Châu và chi nhánh CitiBank Việt Nam cho phép chuyển khoản ngoài hệ thống trên tổng số 8 ngân hàng có chức năng chuyển khoản trực tuyến.

Một trong những cản trở đối với việc cung cấp trực tuyến dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống là mối lo về mức độ an toàn, bảo mật của khách hàng cũng như năng lực của ngân hàng lõi (core banking) chưa đảm bảo. Tuy nhiên, con số 4 ngân hàng triển khai dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống cũng cho thấy một tín hiệu khả quan về nỗ lực của các nhà cung cấp trong việc tạo nhiều tiện ích hơn nữa cho người sử dụng và mở rộng phạm vi của giao dịch ngân hàng trực tuyến.



(iii) Một dịch vụ gia tăng mới của ngành ngân hàng

Ngân hàng trực tuyến là một dịch vụ gia tăng mới của các ngân hàng trong hai năm trở lại đây, mang lại nhiều lợi ích cho cả ngân hàng và người tiêu dùng. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến được nhận định là lợi thế cạnh tranh trong tương lai gần của các ngân hàng tại thị trường Việt Nam. Cả ngân hàng trong nước và nước ngoài đều đang từng bước triển khai dịch vụ này. Citibank là một ví dụ điển hình của ngân hàng nước ngoài triển khai dịch vụ trực tuyến tại chi nhánh ở Việt Nam.



* CitiBank Việt Nam với dịch vụ ngân hàng trực tuyến

Năm 1995, Citibank là ngân hàng đầu tiên áp dụng hệ thống ngân hàng điện tử cho phép khách hàng tự thực hiện giao dịch qua mạng. Năm 2006, Citibank tiếp tục mở rộng dịch vụ để cung cấp cho khách hàng thông tin trực tuyến về trạng thái giao dịch thương mại của mình. Sau đó, Citibank triển khai giao diện đầu tư trực tuyến toàn cầu cho các quyền chọn đầu tư trong và ngoài nước.

Đến tháng 4/2007, Citibank Việt Nam đã chính thức giới thiệu sản phẩm toàn cầu đến Việt Nam là hai kênh dịch vụ Ngân hàng trực tuyến gồm dịch vụ Đầu tư Citibank Online và Dịch vụ thanh toán Thương mại điện tử CitiConnectSM. Với hai dịch vụ trực tuyến nêu trên, ngân hàng trực tuyến mà Citibank cung cấp được coi là khá hoàn hảo đối với người tiêu dùng. Dịch vụ trực tuyến cung cấp cho khách hàng bao gồm:

Thông tin báo cáo:

Tổng kết các khoản chi tiêu của tài khoản

Thông tin các khoản giao dịch

Thông tin lãi suất

Báo cáo của ngân hàng

Các chức năng nghiệp vụ

Thanh khoản, đầu tư điện tử

Chuyển khoản trong và ngoài hệ thống, chuyển khoản toàn cầu.

Các dịch vụ ngân hàng Việt Nam hiện nay tuy có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn khá nghèo nàn, trong đó các dịch vụ dựa trên nền công nghệ thông tin còn ít và chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế của WTO, các ngân hàng trong nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với những ngân hàng quốc tế có thế mạnh vượt trội cả về vốn, công nghệ, dịch vụ và năng lực quản lý. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu cho ngành ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng phải nỗ lực hiện đại hoá công nghệ, nâng cấp dịch vụ cho khách hàng. Ngân hàng trực tuyến chính là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đồng thời giúp các ngân hàng cung cấp dịch vụ một cách nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả hơn, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Ngân hàng trực tuyến thực sự là một xu thế tất yếu, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho ngân hàng và người tiêu dùng. Vì vậy, xu hướng phát triển của ngân hàng trực tuyến được dự đoán khả quan trong bối cảnh hội nhập và bùng nổ Internet như hiện nay.

2.4.5.2. Một số ngân hàng triển khai hiệu quả dịch vụ ngân hàng trực tuyến


(i) Thanh toán biên mậu qua hệ thống ngân hàng trực tuyến

Theo thống kê của Trung tâm Thông tin thương mại (Bộ Công Thương), kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam - Trung Quốc trong năm 2006 xấp xỉ 10 tỷ USD và dự báo đến 2010 đạt 15 tỷ USD. Riêng tại cửa khẩu Móng Cái, kim ngạch hai chiều năm 2006 vượt 2,1 tỷ USD, dự kiến năm 2007 sẽ lên tới 2,3 tỷ USD, tăng 9% so với 2006.

Mặc dù thanh toán biên mậu đang tăng trưởng nhanh nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại lớn như Ngân hàng Công thương (Incombank), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) tại khu vực biên giới Việt – Trung chỉ áp dụng hình thức thanh toán thủ công là giao nhận chứng từ trực tiếp. Theo đó, vào một khoảng thời gian quy ước trong ngày, cán bộ ngân hàng hai bên sẽ “đi bộ” qua cửa khẩu để chuyển giao chứng từ thanh toán. Tại Móng Cái, khách hàng đến chi nhánh Incombank giao dịch từ đầu giờ làm việc buổi sáng thì phải chờ đến 3 giờ chiều (giờ Hà Nội), các giao dịch này mới được chuyển giao cho Ngân hàng Công thương Trung Quốc và ngược lại. Đến cuối ngày làm việc, các ngân hàng mới xử lý chứng từ và hạch toán “Có” vào tài khoản người thụ hưởng và hôm sau, người thụ hưởng mới được sử dụng tiền trong tài khoản của mình.

Quy trình thao tác thủ công này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công việc giao thương giữa khách hàng hai nước. Doanh nghiệp phải chấp nhận rủi ro hàng xuống cấp do giao dịch chậm trễ, gây tổn thất lớn. Sau một tháng phối hợp thử nghiệm với Ngân hàng Công thương Trung Quốc, ngày 10/8/2007, Incombank Việt Nam đã giới thiệu phương pháp thanh toán ngân hàng trực tuyến cho hơn 100 khách hàng của mình tại cửa khẩu Móng Cái. Theo đó, khách hàng đến giao dịch xuất trình chứng từ, ngân hàng chuyển tiền sẽ khởi tạo lệnh chi và truyền qua Internet cho ngân hàng thanh toán với tổng thời gian thực hiện 30 phút/giao dịch. Ngay sau đó, người thụ hưởng có thể nhận được tiền, khi khoản tiền đó được ghi “Có” vào tài khoản của mình. Trường hợp khách hàng cần chuyển tiền gấp, ngân hàng chuyển tiền sẽ gọi điện cho ngân hàng thanh toán ngay sau khi hoàn tất việc truyền lệnh chi trên Internet, để ngân hàng thanh toán truy cập vào Internet thực hiện ngay lệnh chi. Như vậy, phương thức thức thanh toán biên mậu này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, an toàn về vốn, tránh rủi ro trong quá trình chuyển chứng từ thủ công. Đồng thời, đồng vốn được quay vòng nhanh hơn và chi phí giao dịch giảm xuống. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến biên mậu này cũng giúp địa phương không bị thất thu thuế do kiểm soát tốt lượng tiền cũng như hợp đồng kinh tế giữa các bên qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, dịch vụ ngân hàng trực tuyến còn góp phần hạn chế lưu thông tiền mặt trên thị trường, nhờ đó cải thiện tình hình tiền giả xâm nhập vào hệ thống lưu thông.

Theo Báo cáo từ Ngân hàng Incombank, tính đến tháng 11/2007, tổng giá trị giao dịch bằng hình thức này đạt khoảng 2,5 tỷ đồng, trong đó phí thanh toán là 1,3 triệu đồng. Ước tính phương thức thanh toán này sẽ hút giao dịch từ thị trường phi chính thức vào giao dịch chính thức qua ngân hàng và giá trị giao dịch sẽ được nâng từ 70% lên 90% vào thời gian tới. Trước những ưu điểm mà dịch vụ ngân hàng trực tuyến mang lại, Incombank đã mở rộng triển khai hình thức thanh toán này tại một số cửa khẩu biên giới khác với Trung Quốc. Cùng với Incombank, ngân hàng Agribank cũng triển khai dịch vụ này tại cửa khẩu Móng Cái vào ngày 24/8/2007. Ngân hàng trực tuyến áp dụng trong thanh toán biên mậu sẽ có cơ hội phát triển hơn nữa trong bối cảnh nhu cầu giao thương ngày một nhiều giữa Việt Nam và Trung Quốc.

(ii) Ngân hàng Đông Á – nhiều loại hình dịch vụ cho ngân hàng trực tuyến

Khảo sát của Vụ Thương mại điện tử, Bộ Công Thương cho thấy Ngân hàng Đông Á là một trong số những ngân hàng tiên phong trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Ngân hàng Đông Á chính thức triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến vào ngày 15/8/2005. Quá trình phát triển và hoàn thiện của dịch vụ tính đến nay trải qua 3 giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, dịch vụ ngân hàng trực tuyến của Đông Á chỉ cho phép khách hàng kiểm tra số dư tài khoản (tài khoản cá nhân và doanh nghiệp) và xem, in sao giao dịch. Một năm sau đó, dịch vụ tiến thêm bước mới bằng việc cung cấp tiện ích chuyển khoản trong nội bộ ngân hàng với hạn mức từ 50 nghìn đồng/lần đến 500 triệu đồng/lần. Tiện ích này giúp khách hàng cá nhân và doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí để thực hiện các giao dịch chuyển khoản. Thay vì phải trực tiếp xếp hàng tại các quầy giao dịch, người tiêu dùng có thể thực hiện thao tác chuyển khoản một cách nhanh chóng, mọi lúc, mọi nơi. Tiện ích đánh dấu bước phát triển mới, đưa dịch vụ ngân hàng trực tuyến của Ngân hàng Đông Á tới nhiều người sử dụng hơn.

Tháng 1/2007, chỉ có 11.000 khách hàng đăng ký sử dụng. Nhưng đến tháng 2/2007, số lượng đã tăng đột biến lên khoảng 117 nghìn người. Các tháng tiếp theo dịch vụ vẫn duy trì được số tài khoản đăng ký tăng dần đều. So với số người đăng ký sử dụng dịch vụ tin nhắn ngân hàng, dịch vụ ngân hàng trực tuyến tỏ ra có sức hút lớn hơn dù tiện ích cung cấp ở cả hai loại hình này như nhau. Sự khác biệt này là do đối tượng khách hàng của dịch vụ ngân hàng trực tuyến bao gồm cả doanh nghiệp, trong khi đó tin nhắn ngân hàng chỉ dừng lại ở đối tượng khách hàng cá nhân. Điều này cũng phần nào lý giải được trị giá chuyển khoản qua SMS chỉ bằng khoảng 2% tổng giá trị giao dịch ngân hàng trực tuyến.

Trong giai đoạn ba, dịch vụ tiếp tục được bổ sung thêm chức năng thanh toán trực tuyến khi mua hàng tại www.golmart.com.vn, www.123mua.com.vn và mua thẻ trả trước cho các loại thẻ di động, thẻ Internet, điện thoại cố định. Ngoài ra, Ngân hàng còn phối hợp với công ty VTC Intecom để triển khai dịch vụ nạp tiền vào tài khoản Vcoin hoặc nạp tiền vào tài khoản di động. Số lượng và giá trị giao dịch của hoạt động này cũng tăng bình quân 50%/tháng. Bắt đầu từ quý I/2008, việc chuyển khoản sẽ không chỉ bó hẹp trong nội bộ Đông Á mà khách hàng có thể thực hiện chuyển khoản tới bất kỳ ngân hàng nào. Ngoài ra, ngân hàng cũng đang xúc tiến việc tạo liên kết chiến lược với các nhà cung cấp dịch vụ, sản phẩm khác để đẩy mạnh tiện ích thanh toán trực tuyến.


2.4.5.3. Dịch vụ tin nhắn ngân hàng (SMS Banking)

2.4.5.3.1. Thông tin chung


* Tiện ích của dịch vụ

Cùng với ngân hàng trực tuyến, dịch vụ tin nhắn ngân hàng ra đời như một bước tiếp theo trong tiến trình ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngân hàng. Tận dụng sự phổ biến của điện thoại di động, nhiều ngân hàng đã bổ sung thêm tiện ích mới này nhằm phục vụ khách hàng ở mức tốt hơn.

Tiện ích của dịch vụ tin nhắn ngân hàng được chia thành 2 nhóm theo nhu cầu sử dụng là nhóm cung cấp thông tin và nhóm thanh toán. Việc phân loại nhóm tiện ích nhằm đánh giá mức độ triển khai dịch vụ và phản ánh phần nào nhu cầu của thị trường hiện nay. Khảo sát của Vụ Thương mại điện tử cho thấy, tất cả các ngân hàng triển khai dịch vụ tin nhắn đều có tiện ích cung cấp thông tin. Mục đích của nhóm tiện ích này là giúp khách hàng cập nhật những thông tin cơ bản nhất một cách tiện lợi thông qua thiết bị di động. Ngân hàng Hàng Hải còn đưa ra tính năng cung cấp thông tin về thư tín dụng (L/C) và chứng từ thanh toán xuất nhập khẩu của doanh nghiệp dựa trên nhu cầu thanh toán quốc tế rất lớn của khách hàng. Đây được coi là một điểm tạo khác biệt trong dịch vụ của ngân hàng này nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của đối tượng khách hàng doanh nghiệp.

Chưa phổ biến như các tiện ích thông tin, nhóm tiện ích thanh toán chính là tiêu chí giúp so sánh sự phát triển của dịch vụ giữa các ngân hàng khác nhau. Trong 16 ngân hàng triển khai dịch vụ tin nhắn ngân hàng, có 6 ngân hàng đã triển khai nhóm tiện ích thanh toán. Nhóm tiện ích này cũng có thể được chia làm 2 loại là thanh toán các khoản chi liên quan đến hoạt động ngân hàng (như thanh toán thẻ tín dụng, chuyển khoản) và thanh toán các loại hoá đơn hay mua hàng trực tuyến.

Các tiện ích dịch vụ tin nhắn ngân hàng đang được triển khai bao gồm:

* Nhóm cung cấp thông tin:

(1) Số dư tài khoản;

(2) Liệt kê giao dịch của tài khoản.

(3) - Lãi suất tiết kiệm;

- Tỷ giá tiền tệ;

- Địa điểm đặt máy ATM và phòng giao dịch.

(4) - Hạn mức tín dụng;

- Tình hình hoạt động tín dụng;

- Thông tin về L/C và chứng từ thanh toán XNK.

* Nhóm thanh toán:

(5) Chuyển khoản.

(6) - Thanh toán thẻ tín dụng;

- Thanh toán hoá đơn;



- Mua hàng trực tuyến.

Bảng 4.2. Danh sách các ngân hàng triển khai dịch vụ tin nhắn ngân hàng

Ngân hàng

Tiện ích cung cấp thông tin

Tiện ích thanh toán




(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

NH Ngoại Thương VN

x

x

x










NH Quốc tế VIBank










x







NH Nhà Hà Nội

x

x

x










NH Công Thương VN

x

x

x




x




NH Phương Nam

x

x

x










NH Hàng Hải

x

x

x

x







NH Quân đội

x

x

x







x

NH Kỹ Thương
















x

NH Sài Gòn – Hà Nội

x

x

x










NH TMCP Sài Gòn

x

x

x










NH Đông Á

x

x

x




x

x

NH Sài Gòn Công Thương

x




x










NH Xuất nhập khẩu

x

x




x







NH ACB

x

x













NH Việt Á

x

x

x










NH VID Public

x




x










Nguồn: Báo cáo thương mại điện tử năm 2007, Bộ Công thương

Kết quả khảo sát cho thấy đa số các ngân hàng đồng thời triển khai hai dịch vụ tin nhắn ngân hàng và ngân hàng trực tuyến. Hai dịch vụ này hầu hết cùng cung cấp một số loại tiện ích cho khách hàng và được coi là hai công cụ bổ trợ đắc lực cho nhau. Trong số các ngân hàng đã triển khai hai dịch vụ trên, chiếm phần lớn là ngân hàng thương mại trong nước. Đây là một tín hiệu đáng mừng về tính năng động của ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như ngân hàng ANZ hay CitiBank hiện chỉ triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến.


2.4.5.3.2. Ứng dụng của dịch vụ tin nhắn trong thanh toán cho thương mại điên tử


Một nội dung được các doanh nghiệp quan tâm khi phát triển dịch vụ thanh toán qua tin nhắn di động là tính năng thanh toán tiền điện, nước, hoặc mua hàng trực tuyến, trò chơi trực tuyến. Điện, nước là hai khoản chi phí mà người dân phải thanh toán hàng tháng, song các hộ gia đình ngày nay đang gặp phải những bất tiện về thời gian đóng phí. Thanh toán qua tin nhắn có thể là một giải pháp hữu hiệu giúp người dân giải quyết các chi phí hàng tháng của hộ gia đình một cách tiện lợi. Ngoài thanh toán tiền điện, nước, dịch vụ này còn có thể được mở rộng sang các khoản thu khác như phí vệ sinh, phí truyền hình cáp, v.v…

Tuy nhiên, để phát triển dịch vụ thanh toán này, đòi hỏi các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như điện, nước, điện thoại v.v… phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhiều ngân hàng thương mại khác nhau để giảm chi phí thanh toán. Do yêu cầu mang tính đặc thù đó nên phạm vi ứng dụng của dịch vụ hiện còn khá khiêm tốn bởi việc “bắt tay” cùng một lúc với các ngân hàng có tiếng như VCB, BIDV, ACB là điều không dễ. Vì vậy, đây sẽ là mảng dịch vụ có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai, khi lượng sử dụng thiết bị di động ngày càng tăng.

Ngoài ra, thanh toán qua tin nhắn di động đang được mở rộng ứng dụng cho một số dịch vụ khác như mua bảo hiểm xe cơ giới của Công ty bảo hiểm Bảo Minh. Dịch vụ thanh toán được thực hiện thông qua sự hợp tác trực tiếp giữa Ngân hàng Kỹ thương và doanh nghiệp cung cấp sản phẩm. Phương thức mới này giúp ngân hàng bổ sung thêm giá trị gia tăng cho khách hàng hiện tại, mở rộng khách hàng tiềm năng và giúp tăng cường thêm kênh phân phối sản phẩm cho nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Song song với hoạt động trên, Ngân hàng Techcombank cũng triển khai dịch vụ thu tiền cước phí Internet ADSL của công ty FPT qua tin nhắn nhằm đa dạng hoá dịch vụ tin nhắn ngân hàng của mình đồng thời làm phong phú hơn các dịch vụ thanh toán qua di động nói chung trên thị trường.

Thanh toán qua tin nhắn di động đang là một loại hình thanh toán điện tử rất phổ biến và được người tiêu dùng quan tâm vì sự tiện lợi. Chỉ cần có thiết bị di động cùng một tài khoản tại ngân hàng, người tiêu dùng có thể thực hiện được nhiều giao dịch thanh toán khác nhau và chủ động được trong việc thực hiện các giao dịch đó.


2.4.6. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử


Trước nhu cầu của xã hội, năm 2007 đã chứng kiến những nét chuyển biến lớn của thanh toán điện tử Việt Nam. Ngoài các ngân hàng, nhiều công ty cung cấp dịch vụ, giải pháp cho thanh toán điện tử ra đời. Báo cáo này tập trung giới thiệu các mô hình cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử và việc triển khai của một số doanh nghiệp điển hình.

Bảng 4.3. Danh sách các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử

STT

Công ty

Dịch vụ



CTCP dịch vụ thẻ Smartlink

Thanh toán điện tử

Thẻ trả trước

Chuyển mạch ATM và POS




CTCP Dịch vụ & Thương mại trực tuyến Onepay

Giải pháp thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng



CTCP mạng thanh toán PayNet

Thanh toán qua POS, ePOS và mPOS

Thẻ trả trước

Dịch vụ top-up




CTCP chuyển mạch tài chính Quốc gia Việt Nam Banknet

Chuyển mạch ATM và POS

Dịch vụ Mr.Top-up





CTVASC Payment

Thanh toán trực tuyến cho các chủ tài khoản tại NH Ngoại Thương và Kỹ Thương tại địa chỉ www.paygate.com.vn



CTCP giải pháp thanh toán Việt Nam VnPay

Dịch vụ top-up

Thanh toán các loại hóa đơn





CTCP Công nghệ thanh toán thông minh SmartPay

Giải pháp thanh toán thẻ



CTCP Dịch vụ thương mại điện tử VietPay

Vgold dùng để mua bán trực tuyến tại www.nhansu.com, www.timban.com.vn, www.vcards.vn, www.market4gamer.net



CTCP phát triển công nghệ HW PayViet

Ví điện tử (Sử dụng tài khoản PayViet để mua bán và thanh toán trực tuyến tại ww.hwmarket.vn, www.chovieclam.com.vn,



CTTNHH Là tôi

Cổng thanh toán điện tử Toipay



CTdịch vụ xử lý dữ liệu Tiến Thành

Cổng thanh toán điện tử 68pay



CTCP viễn thông Sài Gòn – Saigon Tel

Ví điện tử (e-wallet)



CTCP dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng Việt Phú – Mobivi

Cổng thanh toán điện tử Mobivi

Nguồn: Báo cáo thương mại điện tử 2007, Bộ Công thương

2.4.6.1. PayNet với thanh toán qua POS và ePOS

Công ty Cổ phần Mạng thanh toán VINA gọi tắt là PayNet tham gia thị trường thanh toán điện tử Việt Nam vào tháng 4/2007. Mục tiêu kinh doanh của PayNet là tạo ra cầu trung gian thanh toán giữa ngân hàng và các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông qua thiết bị điện thoại cố định, điện thoại di động, máy tính có kết nối Internet hoặc trên ATM, POS được lắp đặt tại các chi nhánh ngân hàng, đại lý thanh toán thẻ, đặc biệt là các chuỗi cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc.

Chiến lược kinh doanh của PayNet được chia làm hai giai đoạn với dòng sản phẩm và dịch vụ có tính năng khác nhau. Giai đoạn 1, PayNet triển khai dịch vụ bán thẻ điện thoại trả trước, áp dụng cho tất cả các loại thẻ hiện đang được sử dụng với bất kỳ mệnh giá nào. Mô hình bán thẻ được thực hiện thông qua hệ thống thiết bị thanh toán đầu cuối POS. Sau khi thanh toán, các đại lý sẽ sử dụng thẻ đại lý của mình cà vào POS, từ đó in ra mã số nạp thẻ, số sê-ri, thời hạn sử dụng, thời điểm mua thẻ, địa điểm mua thẻ và hướng dẫn sử dụng. Hoặc người tiêu dùng có thể sử dụng thẻ ATM của mình tại các ngân hàng có kết nối để thao tác giao dịch này. Mô hình thanh toán tổng thể của PayNet được minh hoạ trong hộp dưới đây.



Sơ đồ 4.1. Quy trình mua hàng điện tử và quy trình thanh toán điện tử của PayNet



Bước 1: Khách hàng đến đại lý của PayNet, chọn loại thẻ điện thoại cần mua và chọn phương pháp thanh toán bằng thẻ hay bằng tiền mặt

Bước 2: Đại lý thao tác trên thiết bị POS, cà thẻ qua máy và nhập số PIN. Yêu cầu về mã thẻ trả trước cùng thông tin thanh toán sẽ được gửi về hệ thống chuyển mạch thanh toán của PayNet

Bước 3: Hệ thống thanh toán kiểm tra thông tin thanh toán, kiểm tra hàng và xuất mã thẻ trả trước và gửi tín hiệu lại cho thiết bị POS.

Bước 4: Thiết bị POS in ra phiếu mã thẻ trả trước và biên lai. Đại lý chuyển phiếu mã thẻ trả trước cho khách hàng.



Bước 1: Khi thanh toán, khách hàng cào thẻ ATM, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước của ngân hàng kết nối qua thiết bị POS và kiểm tra tổng số tiền thanh toán và nhập số PIN.

Bước 2: Thiết bị POS kết nối về hệ thống PayNet, gửi yêu cầu xử lý giao dịch thanh toán điện tử

Bước 3: Hệ thống PayNet kiểm tra thông tin bảo mật và cấp phép và chuyển giao dịch sang ngân hàng tương ứng để thực hiện.

Bước 4: Ngân hàng kiểm tra thông tin giao dịch và chuyển khoản từ tài khoản khách hàng sang tài khoản đại lý. Sau đó, kết quả giao dịch được gửi lại PayNet.

Bước 5: PayNet ghi nhận kết quả giao dịch và gửi thông tin giao dịch tới thiêt bị POS.

Bước 6: Thiêt bị POS in biên lai. Đại lý sẽ chuyển giao biên lai cho khách hàng để chứng nhận giao dịch thanh toán.


Tiện ích của dịch vụ này đối với người sử dụng là có thể đa dạng hoá các mệnh giá thẻ điện thoại di động trả trước. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ để mua hoặc tặng giá trị thẻ cho người khác. Tiện ích đối với các đại lý bán thẻ là không phải bỏ một lượng vốn nhất định cho việc mua thẻ để tích luỹ. Đối với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, họ có thể tiết kiệm chi phí in ấn và quản lý thủ công các thẻ cào bán ra. Quan trọng hơn cả, hình thức thanh toán này sẽ giúp người tiêu dùng nâng cao ý thức hạn chế sử dụng tiền mặt trong giao dịch và làm quen với phương thức thanh toán điện tử.

Mục đích của giai đoạn này là thiết lập một mạng lưới đại lý POS của PayNet, từ đó tạo tiền đề phát triển cho giai đoạn 2. Sau 1 năm triển khai, PayNet đã có mạng lưới 1000 điểm POS tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự định đến hết năm 2007, PayNet thiết lập được 6.000 điểm trên toàn quốc và bắt đầu bước sang giai đoạn 2 của chiến lược phát triển kinh doanh. Đây là giai đoạn kết nối thanh toán trực tuyến với các ngân hàng và các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ như viễn thông, trò chơi trực tuyến, Internet, điện, nước, bảo hiểm, v.v...

Ở giai đoạn này, POS sẽ được ứng dụng dưới một định dạng khác có kết nối Internet là ePOS, nhằm hỗ trợ tốt hơn việc thanh toán các hoá đơn nêu trên. ePOS là giải pháp thanh toán được cài đặt trên máy tính kết nối Internet và hệ thống quản lý thẻ Way4, kho hàng số đặt tại PayNet. Với giải pháp này, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch như thanh toán thẻ, top-up tài khoản trả trước, thanh toán hóa đơn và các dịch vụ gia tăng khác. Ưu điểm nổi bật của giải pháp này là tính bảo mật cao do được mã hóa nhiều lớp. Việc kết nối mạng Internet giúp giảm chi phí thiết bị cho đại lý và nâng cao hơn nữa tiện ích cho khách hàng. Các ngân hàng thành viên của PayNet bao gồm Ngân hàng An Bình, Ngân hàng Nam Việt, Ngân hàng Kỹ thương và Ngân hàng VP.

Theo báo cáo của PayNet, số giao dịch trên toàn mạng lưới POS của công ty đến cuối năm 2007 đạt bình quân 150 nghìn giao dịch/ngày, doanh thu ước tính khoảng 2 tỷ đồng/ ngày. Trong thời gian sắp tới, PayNet tiếp tục ưu tiên mở rộng mạng lưới đại lý ở cả ba dạng POS, ePOS và mPOS với 5000 đại lý trong đó có 1000 POS, 2000 ePOS và 2000 mPOS. Doanh thu sẽ tăng 50% so với năm 2007, dự kiến đạt khoảng 3 tỷ đồng/ngày. Về mặt đối tác, các ngân hàng thành viên sẽ được mở rộng, dự kiến bao gồm Ngân hàng Quân đội, Ngân hàng Hàng Hải, Ngân hàng Quốc tế và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu. Trong mảng thanh toán cước và hóa đơn trả sau, Pay- Net sẽ triển khai kết nối thanh toán tiền điện (EVN – ABB), ADSL (FPT), điện thoại di động trả sau cho Vinaphone, Mobiphone, Viettel và bảo hiểm Prudential.

Ngày 19/12/2007, công ty cũng giới thiệu dịch vụ iTICK, cho phép khách hàng sử dụng thẻ nội địa của PayNet để thanh toán cho việc mua sắm trên các website bán hàng trực tuyến, đồng thời phát hành thẻ SIVIcard là thẻ ưu đãi dành cho sinh viên và có chức năng thanh toán trực tuyến. Chiến lược kinh doanh của PayNet được xác định theo mức phát triển tăng dần về các tính năng ứng dụng của dịch vụ mà công ty đưa ra. Theo lộ trình này, mục đích cuối cùng của Pay- Net cũng hướng tới xây dựng một cổng thanh toán tích hợp đa dịch vụ.

2.4.6.2. VnPay với dịch vụ thanh toán Top-Up

Trong số các dịch vụ thanh toán qua tin nhắn di động, thanh toán cước phí điện thoại di động bao gồm thuê bao trả trước và trả sau phát triển mạnh hơn cả. Rất nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán điện tử đang bắt đầu triển khai cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, để có thể phát triển mạnh dịch vụ, các doanh nghiệp phải thiết lập quan hệ đối tác với nhiều ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng mở tài khoản ở bất cứ ngân hàng nào. Mặc dù tổng giá trị giao dịch qua thiết bị di động còn thấp nhưng sự tiện dụng của hình thức thanh toán này chính là lợi thế cạnh tranh giúp nó duy trì vị thế trong thị trường thanh toán hiện nay. Đối tượng của dịch vụ thanh toán này là người sử dụng đầu cuối trong giao dịch B2C, vì vậy, đòi hỏi dịch vụ phải đơn giản, dễ thực hiện và an toàn.

Công ty Giải pháp thanh toán Việt Nam, gọi tắt là VnPay, đã đưa ra dịch vụ thanh toán và nạp tiền qua tin nhắn như một dịch vụ gia tăng tiện ích của viễn thông trong hoạt động thanh toán điện tử. VnPay phát triển một hệ thống kết nối với các ngân hàng và triển khai mạng lưới đại lý nạp tiền cho các thuê bao trả trước và thanh toán hoá đơn trả sau bằng cách gửi SMS lệnh trừ tiền tài khoản tại ngân hàng để thanh toán.

Dịch vụ thanh toán qua tin nhắn SMS được cung cấp dưới hai hình thức là nạp tiền trực tiếp cho các thuê bao trả trước và thanh toán hoá đơn cước trả sau. Đối với dịch vụ nạp tiền trực tiếp cho các thuê bao trả trước, tất cả những thuê bao trả trước có tài khoản tại ngân hàng có thể sử dụng hình thức nhắn tin để nạp tiền trực tiếp vào số máy di động của mình với mệnh giá tuỳ ý. Ngoài việc tự nạp tiền cho chính mình, người tiêu dùng có thể tặng tiền vào tài khoản cho người khác chỉ với một tin nhắn tương tự. Việc thanh toán các tài khoản di động sẽ được trừ trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của chủ số điện thoại này. Đối với thuê bao trả sau, khách hàng có thể sử dụng loại dịch vụ thanh toán hoá đơn cước trả sau để thực hiện thao tác thanh toán hoá đơn của mình. Sau khi nhận được thông báo cước, tại bất cứ đâu vào thời gian nào, khách hàng có thể thực hiện thanh toán hoá đơn đó thông qua tin nhắn SMS. Số tiền cước di động sẽ được chuyển từ tài khoản của khách hàng tới công ty cung cấp dịch vụ viễn thông.

Ngoài ra, để tăng cường thêm kênh phân phối của các công ty viễn thông, dịch vụ mà VnPay cung cấp cho phép các đại lý bán hàng sử dụng số điện thoại đăng ký, số tài khoản đã có tại ngân hàng và đăng ký với VnPay để tham gia phân phối thuê bao trả trước bằng tin nhắn. Như vậy, những đại lý này không cần ứng tiền trước, không cần kho hàng và không cần mua trước mệnh giá thẻ nạp tiền mà vẫn có thể cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng. Đây sẽ là một tiện ích có ưu điểm khá vượt trội dành cho các đại lý di động hiện nay. Dịch vụ của VnPay hướng tới người tiêu dùng cuối cùng, do vậy những yêu cầu đặt ra để thanh toán, nạp tiền thông qua tin nhắn cũng được đơn giản hóa. Khách hàng chỉ cần đăng ký sử dụng dịch vụ tại các ngân hàng, các công ty viễn thông hoặc VnPay. Các thông tin đăng ký bao gồm số thẻ ATM tại một ngân hàng được chỉ rõ, số di động thực hiện nhắn tin. Những thông tin này sẽ được VnPay và ngân hàng thanh toán xác thực trước khi kích hoạt dịch vụ nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia.


Sơ đồ 4.2. Minh họa các bước thực hiện dịch vụ của VNPay



Khách hàng (thuê bao) gửi tin nhắn đến tổng đài số ngắn 8x49 do công ty viễn thông (Telco) cấp cho VNPay

Tin nhắn được chuyển sang ngân hàng (nơi khách hàng mở tài khoản)

NH thực hiện thanh toán, chuyển tiền từ tài khoản của khách hàng vào tài khoản của VNPay và thông báo lại cho VNPay

VNPay gửi lệnh nạp tiền vào tài khoản cho khách hàng sang Telco

Telco nạp tiền cho khách hàng và thông báo cho VNPay (đồng thời thông báo cho khách hàng)

VNPay thông báo cho khách hàng bằng SMS



Trong giai đoạn đầu, VnPay cung cấp dịch vụ thanh toán cho hệ thống mạng di động Vinaphone qua hệ thống Ngân hàng Incombank. Toàn bộ thuê bao của mạng di động Vinaphone có thể đăng ký sử dụng dịch vụ của VnPay tại ATM của Ngân hàng Incombank. Dịch vụ thanh toán này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/2007, vì vậy, vẫn còn quá sớm để nói về doanh thu và lợi nhuận mà hình thức này mang lại. Tuy nhiên, việc mở rộng liên kết với các công ty viễn thông và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau cùng mạng lưới ngân hàng đang là mục tiêu hướng tới của nhiều doanh nghiệp thanh toán hiện nay. Điều này chứng tỏ thị trường thanh toán điện tử tại Việt Nam rất có tiềm năng và còn nhiều chỗ cho các doanh nghiệp khẳng định mình.

2.4. 7. Triển vọng kết nối dịch vụ thanh toán trực tuyến trong thương mại điện tử

2.4.7.1. Cổng thanh toán điện tử

Vai trò của cổng thanh toán điện tử


Cổng thanh toán điện tử là nhân tố nền tảng để tạo nên một hệ thống thanh toán điện tử có tính liên thông cao, đáp ứng các yêu cầu phát triển của thương mại điện tử. Trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam với hơn 80 ngân hàng đang hoạt động, việc kết nối 100% các ngân hàng là điều khó thực hiện trong tương lai gần. Thực tế cho thấy, việc hình thành các liên minh thẻ là một điều tất yếu để các ngân hàng cùng tồn tại và phát triển. Cổng thanh toán điện tử là đáp án để khắc phục những khó khăn do sự khác biệt về cơ chế hoạt động của từng ngân hàng trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán đến người tiêu dùng.

Nhìn từ góc độ ngân hàng, cổng thanh toán điện tử sẽ giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển hạ tầng công nghệ. Bằng việc tạo ra một cầu nối trung gian giữa các ngân hàng, cổng thanh toán điện tử được coi như đầu mối chung chuyển các lệnh nghiệp vụ mà không đòi hỏi các ngân hàng phải triển khai cùng một hệ thống kỹ thuật như nhau.

Nhìn nhận dưới góc độ của doanh nghiệp, cổng thanh toán điện tử là tiền đề để xây dựng một mạng lưới thanh toán hiện đại, giúp các doanh nghiệp triển khai giao dịch thương mại điện tử theo một quy trình hoàn thiện. Sự phát triển của thương mại điện tử luôn gắn chặt và đòi hỏi có sự tham gia của cổng thanh toán điện tử. Đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử, sự ra đời cổng thanh toán điện tử và sự tiện lợi của các hình thức thanh toán điện tử sẽ là đòn bẩy giúp tăng lượng khách hàng cũng như giao dịch.

Quan trọng hơn cả, lợi ích của người tiêu dùng sẽ được nâng cao thông qua những tiện ích mà cổng thanh toán điện tử mang lại. Hiện nay, do sự khác biệt giữa các ngân hàng và mức độ hợp tác chưa cao giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nên người tiêu dùng phải sử dụng nhiều loại thẻ, mở tài khoản tại nhiều ngân hàng; điều này gây bất tiện khá lớn khi tham gia vào thương mại điện tử. Với cổng thanh toán điện tử, chỉ cần có tài khoản tại một ngân hàng, người tiêu dùng có thể chi trả cho hàng hoá và dịch vụ của tất cả các nhà cung cấp với tài khoản nhận tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau. Cổng thanh toán điện tử ra đời sẽ mang lại lợi ích cho nhiều đối tượng khác nhau và là động lực thúc đẩy thương mại điện tử phát triển ở một tầm cao mới.

Cổng thanh toán điện tử là nền tảng cơ bản cho hoạt động thanh toán trong thương mại điện tử, do vậy, nó đòi hỏi thị trường cần có một sự đầu tư nghiêm túc, một mạng lưới phối hợp vững chắc để đảm bảo tính hiệu quả. Trong một thị trường có khoảng 80 ngân hàng cùng hoạt động, việc một ngân hàng đứng ra tạo lập cổng thanh toán dường như thiếu tính khả thi. Cổng thanh toán cần được hình thành từ mối liên kết chặt chẽ của nhiều ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập trong cơ chế hoạt động nhằm mang lại lợi ích cân bằng cho tất cả các đối tượng tham gia.

Do vai trò thiết yếu của cổng thanh toán điện tử cũng như xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp đã có những phản ứng khá tích cực bằng việc đưa ra một số mô hình được xây dựng theo các cách tiếp cận khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là tạo ra “cầu nối” giữa người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng. Báo cáo sẽ đưa ra phân tích tổng quát về 2 mô hình cổng thanh toán được đánh giá là có tính khả thi cao trong hoạt động thanh toán điện tử.



(i) Công ty Cổ phần Dịch vụ thẻ Smartlink

Tiền thân là liên minh thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) gồm 17 ngân hàng, Công ty Cổ phần Dịch vụ Thẻ (Smartlink) ra đời với chức năng chính là một công ty chuyên cung cấp các dịch vụ liên quan đến thẻ thanh toán, quản lý và vận hành mạng thanh toán thẻ của các ngân hàng thành viên, phát triển kênh thanh toán điện tử với vai trò một cổng thanh toán. Smartlink ra đời khẳng định sự gắn kết giữa các ngân hàng nhằm tăng cường và mở rộng mối quan hệ hợp tác đa chiều, liên kết để phát triển và thúc đẩy các dịch vụ thanh toán đặc biệt là thanh toán trong thương mại điện tử.



Cuối năm 2007, Smartlink vận hành một mạng lưới thanh toán gồm 27 ngân hàng thành viên, trong đó 17 ngân hàng đã triển khai kết nối thành công và hoạt động ổn định với số lượng thẻ phát hành đạt 3 triệu thẻ và được chấp nhận thanh toán tại hơn 1.500 máy ATM và 10.000 đơn vị chấp nhận thẻ trên toàn quốc. 17 ngân hàng này được đánh giá là năng động và có khả năng mở rộng quy mô nhanh.

Bảng 4.4. Danh sách các ngân hàng thành viên của Smartlink và Banknetvn

Smartlink

Banknetvn

NH Ngoại Thương VN

NH Quốc tế VN

NH Công Thương VN

NH Kỹ thương

NH An Bình

NH Đầu tư và Phát triển VN

NH Thương mại Á Châu

NH Nhà ở Hà Nội

NH Sài Gòn Công thương

NH Quân Đội

NH Phát triển nhà ở

NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NH Hàng Hải

NH Việt Á

NH Thương mại Á Châu

NH Bắc Á

NH Sài Gòn

NH Sài Gòn Thương tín

NH Phương Đông

NH Thái Bình Dương

NH Đông Á

NH Đông Nam Á

NH Việt – Nga




NH Phương Nam

NH Ngoại thương Lào




NH Xuất nhập khẩu

NH Đại Dương




NH Indovina

NH Nhân Ái (SH)




NH Nam Việt

NH Việt - Lào




NH VID Public

NH Shinhan Vina




NH VP







Với thế mạnh là mạng lưới các ngân hàng thành viên, Smartlink sẽ cung cấp 3 loại dịch vụ chính là dịch vụ chuyển mạch ATM và POS, thanh toán điện tử và thẻ trả trước mang thương hiệu Smartlink. Với dịch vụ chuyển mạch ATM và POS, Smartlink giúp người tiêu dùng có thể sử dụng một thẻ để giao dịch tại tất cả các ngân hàng trong mạng lưới của mình. Trong đó, mảng quan trọng nhất của Smartlink là phát triển các kênh thanh toán điện tử kết nối ngân hàng thành viên với các nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Mạng thanh toán điện tử cho phép khách hàng sử dụng thẻ của các ngân hàng thành viên thực hiện mua sắm hàng hóa, dịch vụ, trả cước phí điện thoại, tiền điện, nước qua các kênh giao dịch điện tử như Internet, điện thoại di động,

ATM và POS. Thẻ mang thương hiệu Smartlink sẽ đi vào hoạt động đầu năm 2008 nhằm tăng thêm công cụ thanh toán cho người tiêu dùng. Việc mở rộng các phương thức thanh toán điện tử sẽ giúp khách hàng dần dần chuyển từ việc sử dụng tiền mặt sang các công cụ thanh toán phi tiền mặt, đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển hạ tầng thanh toán văn minh, hiện đại trên cơ sở ứng dụng CNTT. Mô hình hoạt động của Smartlink được minh hoạ dưới đây.

Ngày 21/11/2007, Smartlink đã ký thoả thuận hợp tác chiến lược với Banknetvn. Việc kết nối hệ thống thanh toán thẻ giữa hai đơn vị này giúp thẻ của các ngân hàng thành viên của Smartlink và Banknetvn phát hành đều có thể thực hiện giao dịch rút tiền mặt, in sao kê tài khoản và kiểm tra số dư tại mạng lưới ATM của tất cả ngân hàng thành viên. Đây là bước tiến dài trong việc tạo lập một dịch vụ chuyển mạch ATM và POS mà bên hưởng lợi chính là người tiêu dùng với mạng lưới chấp nhận thẻ rộng khắp. Trên cơ sở đó, các dịch vụ thanh toán và giá trị gia tăng dựa trên hệ thống này cũng sớm được triển khai để mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho chủ thẻ.

Với mạng lưới ngân hàng và thẻ được mở rộng, Smartlink đã tận dụng ưu thế này để triển khai thanh toán điện tử cho một số ngành hàng, dịch vụ đang phát triển. Với đối tác trong nước, Smartlink đã đạt được thỏa thuận hợp tác cung cấp dịch vụ với các công ty cung ứng dịch vụ viễn thông di động, các nhà cung ứng dịch vụ Internet, bảo hiểm, du lịch lữ hành và bán lẻ lớn tại Việt Nam như MobiFone, Viettel, VinaGame, Pacific Airlines, Bảo Việt, Taxi Mai Linh, VTC, v.v... Chiến lược kinh doanh của Smartlink trong giai đoạn đầu ưu tiên tập trung vào việc mở rộng quan hệ đối tác tại các lĩnh vực nêu trên. Với đối tác nước ngoài, Smartlink cũng đang tiến hành các bước cần thiết để trở thành Trung tâm xử lý giao dịch cho tất cả các tổ chức thẻ quốc tế tại Việt Nam như Visa, MasterCard, American Express, China Union Pay, JCB, Diners Club. Theo đó, các giao dịch thẻ quốc tế của các ngân hàng thành viên thực hiện tại Việt Nam sẽ được xử lý ngay tại hệ thống Smartlink, giải quyết triệt để bài toán hiệu quả kinh tế trong mạng lưới thanh toán thẻ, tạo cơ sở để cổng thanh toán điện tử mà Smartlink đang xây dựng đi vào ứng dụng ở mức cao hơn. Ngoài ra, Smartlink cũng có kế hoạch liên kết với mạng thanh toán thẻ nội địa của các nước trong khu vực như Singapore, Thái lan, Malaysia, v.v... để mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ và gia tăng tiện ích cho khách hàng của các ngân hàng thành viên.



(ii) Hệ thống dịch vụ thanh toán điện tử Mobivi

Thị trường thanh toán điện tử Việt Nam mới bắt đầu có sự vận động rõ nét trong năm 2007. Do vậy, việc xuất hiện cùng một lúc nhiều mô hình thanh toán với các dịch vụ khác nhau là điều dễ hiểu. Bên cạnh Smartlink, dịch vụ thanh toán Mobivi của Công ty Cổ phần Dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng Việt Phú cũng hướng tới cải thiện môi trường thanh toán điện tử hiện nay, tạo ra một loại hình thanh toán tổng quát, đa năng và tiện tích cho người tiêu dùng. Hệ thống Mobivi tạo dựng là một hệ thống mạng kết nối giữa các cơ sở bán hàng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, hàng hoá, người tiêu dùng và các tổ chức tài chính, ngân hàng bằng những giải pháp tích hợp hệ thống. Dịch vụ này nhằm giải quyết lỗ hổng trong quan hệ giữa người mua - người bán – ngân hàng trong thương mại điện tử. Cụ thể, dịch vụ Mobivi bao gồm thanh toán trực tuyến qua mạng Internet, chi trả qua mạng điện thoại, di động và qua các loại thẻ debit card. Trong mối quan hệ giao thương, Mobivi đóng vai trò như một chiếc ví điện tử cho người mua và người bán. Nhờ có tài khoản tại các ngân hàng khác nhau, Mobivi sẽ là trung gian nhận tiền từ tài khoản của khách hàng và chuyển tiền vào tài khoản của người bán. Vai trò này của Mobivi được minh hoạ theo mô hình dưới đây.

Cũng giống như Smartlink, dịch vụ thanh toán Mobivi đảm bảo lợi ích cho cả 3 đối tượng là người tiêu dùng, doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ và ngân hàng. Đối với khách hàng, Mobivi giúp họ thuận tiện hơn trong các giao dịch mua hàng trực tuyến khi chỉ cần một tài khoản tại ngân hàng và tại Mobivi. Đối với doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ, hệ thống bán lẻ hay kênh bán hàng trực tuyến sẽ hoạt động hiệu quả hơn khi khâu thanh toán với khách hàng được giải quyết. Ngoài ra, tiết kiệm chi phí về quản lý và lưu trữ tiền mặt cũng là ưu điểm để doanh nghiệp xem xét. Những doanh nghiệp này có thể nâng cao năng lực quản lý thông qua việc kết nối kênh bán hàng với hệ thống quản lý khách hàng ERP, kế toán. Cuối cùng, với tư cách là một mắt xích trong chuỗi liên kết trên, lợi ích của ngân hàng được xem là khá rõ ràng. Chấp nhận triển khai dịch vụ thanh toán Mobivi, các ngân hàng có cơ hội gia tăng lượng giao dịch trên cơ sở khách hàng của Mobivi hay của các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ thành viên. Ngân hàng không phải đầu tư cho công nghệ về thanh toán đồng thời tiết kiệm được chi phí đặc biệt đối với công tác tăng cường chức năng bán lẻ. Hơn thế nữa, ngân hàng có thể hạn chế rủi ro kinh doanh trong giao dịch với khách hàng thông qua hệ thống thanh toán này. Đó là những lợi ích rất lớn mà một cổng thanh toán điện tử có thể mang lại. Hiện nay, Mobivi đang triển khai kết nối với 6 ngân hàng lớn và một số công ty chứng khoán. Cung cấp dịch vụ thanh toán cho hoạt động chứng khoán là bước khai thác khởi đầu mà Mobivi hướng tới. Chứng khoán hiện đang là lĩnh vực nóng thu hút được nhiều sự quan tâm từ phía người tiêu dùng, đồng thời cũng là phân đoạn thị trường mở đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán.

Xét về chức năng, Mobivi và Smartlink đều cùng hướng tới một mục tiêu chung là tạo ra cổng thanh toán cho các giao dịch điện tử. Tuy nhiên, mỗi dịch vụ lại có xuất phát điểm và lợi thế khác nhau nên cách tiếp cận thị trường cũng khác nhau. Smartlink với lợi thế được thành lập từ mạng lưới các ngân hàng thành viên của liên minh thẻ VCB nên dịch vụ khai thác triệt để mối quan hệ và mạng lưới khách hàng thẻ của những ngân hàng này. Ngược lại, mô hình thanh toán Mobivi xuất phát từ mạng lưới khách hàng của các nhà cung cấp hàng hoá, sản phẩm. Mỗi cách thức thanh toán sẽ đem lại những lợi ích riêng biệt nhưng khi dịch vụ tiến tới một mức độ hoàn chỉnh, thị trường sẽ có sự cạnh tranh mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ nhằm tìm ra mô hình cổng thanh toán tối ưu nhất. Do vậy, đây chính là quãng thời gian quan trọng để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cổng thanh toán định vị thị trường và xác định lợi thế cạnh tranh cho dịch vụ của mình.


2.4.8. Một số mô hình ứng dụng thanh toán điện tử

2.4.8.1.1. Pacific Airlines triển khai bán vé máy bay trực tuyến


Theo Hiệp hội Vận tải hàng không thế giới IATA, vé máy bay điện tử giúp ngành hàng không tiết kiệm được khoảng 3 tỉ USD mỗi năm, giúp các hãng hàng không nâng cao tính cạnh tranh. Không những thế, việc mua vé qua mạng sẽ giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian cũng như nhiều chi phí khác.

Đầu năm 2007, ngành hàng không Việt Nam bắt tay vào triển khai hệ thống vé điện tử. Sau khi chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần và hàng không giá rẻ, hãng hàng không Pacific Airlines áp dụng hình thức bán vé máy bay điện tử trực tuyến với mục đích cắt giảm chi phí hệ thống đại lý, tăng hiệu quả công tác quản lý lịch bay, xoá bỏ chi phí in vé v.v... Đối với người tiêu dùng, sự tiện dụng và chủ động trong việc đặt vé là một lợi ích khó phủ nhận và đã có nhiều phản hồi khả quan từ khách hàng đối với phương thức bán vé này.

Để thực hiện được việc bán vé máy bay điện tử, trở ngại đầu tiên và rất khó khăn mà Pacific Airlines gặp phải là vấn đề thanh toán. Giải pháp thẻ thanh toán được xác định là công cụ quan trọng và mang tính chiến lược trong bước đầu triển khai dịch vụ này. Hiện Pacific Airlines đang sử dụng 2 phương thức thanh toán chính là thanh toán trả trước bằng thẻ tín dụng quốc tế như Visa, Visa Debit, Master Card, JCB, American Express và thanh toán tiền mặt trả sau.

Thanh toán qua thẻ tín dụng đang phát huy được thế mạnh của mình và chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng thanh toán của Pacific Airlines. Tính đến ngày 15/12/2007, theo báo cáo của Công ty Hàng không Cổ phần Pacific Airlines, khoảng 65% tổng số vé bán trực tuyến được thanh toán bằng thẻ tín dụng. Riêng đối với thẻ Techcombank Debit, mỗi tháng ước tính có khoảng 700 giao dịch mua vé Pacific Airlines và tính đến thời điểm hiện tại đã có hàng nghìn khách hàng tham gia đặt vé qua mạng trong số 20.000 khách hàng sử dụng thẻ.

Nhằm tạo thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc thanh toán, Pacific Airlines đang phối hợp với Công ty Cổ phần thẻ Smartlink triển khai hỗ trợ thanh toán qua thẻ nội địa ConneCT24 và các loại thẻ khác do ngân hàng phát hành. Bên cạnh đó, Pacific Airlines sẽ bổ sung thêm kênh thanh toán nhờ thu qua các đơn vị có mạng lưới phủ rộng toàn quốc như các chi nhánh ngân hàng, điểm bưu điện, đại lý bán thẻ điện thoại.

Việc chuyển đổi sang kinh doanh hàng không giá rẻ và bán vé trực tuyến đã giúp Pacific Airlines tiết kiệm được 50% chi phí hạ tầng bán vé. Những kết quả cụ thể mang lại cho hãng hàng không này từ việc triển khai bán vé điện tử qua mạng có thể thấy qua con số tăng trưởng khách hàng trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước là 38%. Hệ số sử dụng ghế trước kia chỉ đạt hơn 70% nay đạt khoảng 85%.

Việc phát triển dịch vụ bán vé máy bay trực tuyến là một nỗ lực rất lớn của hãng hàng không phối hợp cùng các đơn vị thanh toán nhằm gia tăng giá trị, tạo sự tiện lợi và thoả mãn tối đa cho khách hàng. Đối với Pacific Airline, đây là bước tiến quan trọng về mặt công nghệ, giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh mở cửa thị trường. Các hình thức thanh toán điện tử được khẳng định là cần thiết, thương mại điện tử là công cụ mang tính chiến lược cho các hãng hàng không giá rẻ như Pacific Airlines.

2.4.8.2. 123mua! với thanh toán điện tử


123mua! được biết đến như một website B2C khá trẻ nhưng hoạt động có hiệu quả trong thời gian qua. Số lượng đơn hàng năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006. Trung bình mỗi tháng năm 2006 123mua! nhận được 150 đơn hàng, nhưng đến năm 2007, con số này tăng hơn 16 lần, đạt khoảng 2500 đơn hàng/tháng. Một trong những nguyên nhân cơ bản để 123mua! tạo được sức hút thị trường là chiến lược thanh toán cho việc bán hàng trên website. Ban đầu, dựa trên nền tảng khách hàng có sẵn từ các trò chơi trực tuyến đang triển khai, 123mua! xác định đối tượng mua hàng chủ yếu là các game thủ sử dụng thẻ trả trước VinaGame để thanh toán tiền hàng. Nhưng để phát triển website bán hàng sâu rộng hơn, phù hợp với chiến lược kinh doanh, 123mua! buộc phải bổ sung các công cụ thanh toán khác. Đến tháng 12/2007, 123mua! đưa ra 6 lựa chọn thanh toán cho khách hàng bao gồm thẻ Visa &Master, thẻ trả trước VinaGame, thẻ đa năng Đông Á, chuyển tiền qua ngân hàng, chuyển tiền qua bưu điện và giao hàng - thu tiền tận nơi.

Chức năng của thẻ trả trước VinaGame cũng giống như hình thức khấu trừ tiền hàng vào tài khoản của khách. Loại hình thanh toán này hiện vẫn đang chiếm vị trí quan trọng trong các phương tiện thanh toán được sử dụng. Đối với khách hàng không tham gia trò chơi của VinaGame hay ở địa phương xa, họ thường sử dụng phương thức chuyển tiền qua bưu điện và chuyển khoản qua ngân hàng. Đến tháng 8/2007, 123mua! cho phép khách hàng thanh toán bằng thẻ tín dụng quốc tế Visa và Master. Ngay sau đó, lượng sử dụng thẻ trả trước VinaGame giảm và chuyển sang sử dụng phương thức thanh toán này. Tháng 10/2007, thẻ đa năng Đông Á chính thức được đưa vào sử dụng tại website. Loại thẻ này cũng nhận được phản ứng tích cực trong thời gian đầu từ phía người sử dụng.

Hiện tại, do lượng khách hàng đến với 123mua! đại đa số là game thủ nên thanh toán bằng thẻ trả trước VinaGame vẫn chiếm đa số. Chiếm vị trí thứ hai sau thẻ trả trước VinaGame là hình thức chuyển tiền qua bưu điện. Đây là hình thức truyền thống và mang tính tình thế khi thanhtoán điện tử chưa phổ biến. Khi việc thanh toán qua thẻ Visa, Master và thẻ đa năng Đông Á được đưa vào triển khai, tỷ lệ sử dụng các công cụ thanh toán đã có một số dịch chuyển hợp lý.

Do những phương thức này được ứng dụng sau nên tỷ lệ sử dụng chưa cao khi đặt trong mối tương quan tổng thể. Song lợi ích lâu dài mà hai phương thức này mang lại là mở rộng được phạm vi khách hàng tiềm năng, không chỉ trong nước mà còn hướng ra thị trường nước ngoài trong những năm tới.



Bảng 4.5. Tỷ lệ sử dụng các hình thức thanh toán theo từng giai đoạn tại 123! Mua

Hình thức

Tỷ lệ (%)




Trước 10/8/2007

Sau INT (10/8/2007)

Sau DAB (27/10/2007)

Thẻ trả trước VinaGame

89,5

71,5

52,2

Chuyển khoản qua ngân hàng

1,3

2,1

4,2

Chuyển tiền qua bưu điện

6,1

8,8

24,1

Giao hàng và lấy tiền

3,1

1,2

0,4

Thẻ Visa và Master Card (INT)




16,4

11,8

Thẻ đa năng Đông Á (DAB)







7,3

Nguồn: Báo cáo của 123!mua – tháng 12/2007

Điểm nhấn trong toàn cảnh thương mại điện tử Việt Nam năm 2007 chính là sự phát triển nhanh của thanh toán điện tử. So với những năm trước đây, thị trường thanh toán điện tử 2007 đã đạt được những cải tiến lớn trong việc đa dạng hoá các phương thức thanh toán, mở rộng đối tượng cung cấp và ứng dụng dịch vụ. Nét đổi mới này có được là nhờ nỗ lực của các đối tượng tham gia bao gồm người tiêu dùng, ngân hàng và nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên, năm 2007 mới chỉ là điểm khởi đầu, thanh toán điện tử vẫn cần tiếp tục duy trì, đẩy mạnh đà phát triển hiện thời đồng thời nhanh chóng khắc phục những điểm yếu còn tồn tại. Một mạng thanh toán thống nhất sẽ là bàn đạp vững chắc cho thương mại điện tử Việt Nam cất cánh trong những năm tiếp theo.


Câu hỏi ôn tập

  1. Thanh toán điện tử là gì? Nêu một số hình thức thanh toán điện tử phổ biến hiện nay.

  2. Nêu qui trình thanh toán bằng thẻ tín dụng trong thương mại điện tử.

  3. So sánh L/C điện tử và L/C truyền thống.

  4. Nêu những lợi ích của việc triển khai thanh toán điện tử.

  5. Nêu những rủi ro trong thanh toán điện tử đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp.

  6. Nêu các hình thức thanh toán điện tử phổ biến trong mô hình thương mại điện tử B2C tại Việt Nam.

  7. Nêu các điều kiện cần thiết để triển khai thanh toán điện tử.

  8. Nêu thực trạng thanh toán điện tử tại Việt Nam hiện nay.

  9. Giải pháp thanh toán là gì? Nêu một số nhà cung cấp giải pháp thanh toán phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam hiện nay.

  10. So sánh thẻ thông minh với thẻ tín dụng truyền thống.

Thuật ngữ

Ngân hàng thanh toán (acquring bank): ngân hàng cung cấp dịch vụ cho người bán để họ có thể chấp nhận các thanh toán bằng thẻ tín dụng

Giao dịch không xuất trình thẻ (card not present transactions): giao dịch thanh toán bằng thẻ tín dụng mà địa điểm của người mua và người bán khác nhau do đó người mua không xuất trình thẻ cho người bán xem

Thẻ thanh toán (charge card): thẻ dùng để mua sắm với hạn mức không hạn chế, toàn bộ số tiền đã chi tiêu phải được thanh toán hàng tháng

Bồi hoàn (charge bank): quá trình theo đó ngân hàng của người bán lấy lại số tiền đã được chuyển vào tài khoản của người bán và trả lại vào tài khoản tín dụng của người mua nếu người mua chứng minh được việc bồi hoàn là hợp lý

Ví điện tử (client-side electronic wallet): ví điện tử lưu trữ thông tin của ngwofi mua trên máy tính của người mua

Thẻ tín dụng (credit card): thẻ thanh toán với một hạn mức chi tiêu nhất định, các khoản chi tiêu phải trả hàng tháng, chủ thẻ phải trả lãi nếu không thanh toán hết các khoản đã chi tiêu trong tháng

Ngân hàng phát hành thẻ (customer issuing bank): ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng cho khách hàng cá nhân, đôi khi được gọi là hiệp hội thẻ tín dụng

Thẻ ghi nợ (debit card): một loại thẻ thanh toán có thể chuyển tiền từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản của người bán

Tài khoản của người bán (merchant account): tài khoản mà người bán phải sử dụng tại một ngân hàng có dịch vụ sử lý các thanh toán bằng thẻ

Ngân hàng của người bán (merchant bank): ngân hàng cung cấp dịch vụ cho người bán để người bán có thể chấp nhận các thanh toán bằng thẻ

Giao dịch siêu nhỏ (micropayment): những thanh toán qua Internet cho những món hàng có giá trị rất nhỏ - trên dưới một USD

Thẻ thanh toán (payment card): thuật ngữ chỉ các thẻ có khả năng thực hiện thanh toán thay cho tiền mặt, các loại thẻ thanh toán phổ biến gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ mua hàng

Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử (payment processing service provider): một tổ chức trung gian thứ ba thực hiện xử lý các giao dịch thanh toán điện tử qua mạng

Hệ thống thanh toán ngân hàng (Peer-to-peer payment system): thanh toán giữa các tổ chức với nhau

Thẻ thông minh (smart card): một loại thẻ nhựa trên đó có gắn chíp điện tử để lưu trữ các thông tin về chủ thẻ

Thẻ lưu giá trị (stored-value card): thẻ từ hoặc thẻ thông minh trên đó lưu trữ các thông tin về số dư cho các dịch vụ điện thoại, tàu điện, xe bus...


Каталог: books -> kinh-doanh-tiep-thi
kinh-doanh-tiep-thi -> CHƯƠng tổng quan môn học quản trị logistics kinh doanh 1Logistics trong nền kinh tế hiện đại
kinh-doanh-tiep-thi -> BÀi giảng quản trị chiến lưỢC Đối tượng: hssv trình độ Đại học, Cao đẳng, tccn ngành đào tạo: Quản trị Kinh doanh
kinh-doanh-tiep-thi -> Ứng dụng mô HÌnh 5 Áp lực cạnh tranh của michael porter trong kinh doanh siêu thị trêN ĐỊa bàn thành phố ĐÀ NẴNG
kinh-doanh-tiep-thi -> Có đáp án Trong quá trình sản xuất dịch vụ các yếu tố nào là đầu vào ngoại trừ
kinh-doanh-tiep-thi -> MỤc lục hình 3 MỤc lục bảng 3
kinh-doanh-tiep-thi -> Giới thiệu công ty: Lịch sử hình thành và phát triển
kinh-doanh-tiep-thi -> ĐẠi học duy tân khoa Ngoại ngữ Bài giảng ĐẠO ĐỨc nghề nghiệP
kinh-doanh-tiep-thi -> Khoa kinh tế du lịch giáo trình quản trị HỌC
kinh-doanh-tiep-thi -> TRƯỜng đẠi học kinh tế VÀ quản trị kinh doanh
kinh-doanh-tiep-thi -> Tài liệu – Nghệ thuật lãnh đạo Th. S vương Vĩnh Hiệp nghệ thuật lãnh đẠO

tải về 6.11 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   56




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương